Chống Cộng Hay Không Chống Cộng?
-- Anh có phải là người chống cộng không?
-- Không.
Đoạn vấn đáp cụt ngủn trên đây đến đột ngột với Vũ Thư Hiên khi ông vừa từ Paris sang thăm Hoa Kỳ khoảng đầu năm 2000, chuyến viếng thăm ông đã tường thuật trong bài Một Thoáng Hoa Kỳ. Hiển nhiên, người đặt câu hỏi và người trả lời đều đứng trên lập trường vững chắc của mình.
Người phỏng vấn Vũ Thư Hiên “Anh có phải là người chống cộng không?” là phóng viên của đài Little Saigon Radio, một đài phát thanh uy tín phục vụ cho cả triệu thính giả là thuyền nhân, là cựu tù nhân học tập cải tạo ở diện HO, là thân nhân được bảo lãnh theo diện đoàn tụ gia đình, tất cả toàn là nạn nhân Cộng Sản. Lý Tưởng Chống Cộng là ưu tiên hàng đầu của miền Nam, kể từ ngày Cựu Hoàng Bảo Đại về nước chấp chánh với danh vị Quốc Trưởng, qua Đệ Nhất Cộng Hòa với Tổng Thống Ngô Đình Diệm, sau cùng đến Đệ Nhị Cộng Hòa với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Người dân miền Nam trên phân nửa đất nước từ sông Bến Hải đến tận Cà Mau và Hà Tiên đã xây dựng được một nền dân chủ tuy còn non trẻ nhưng đã có đủ các quyền tự do: tự do báo chí, tự do tư tưởng, tự do hội họp, tự do đi lại, tự do xuống đường, tự do kinh doanh, tự do tôn giáo, tự do lập đảng. Trong khoảng thời gian đó, người dân miền Bắc sống trong thiên đường xã hội chủ nghĩa mà thực chất chỉ là CÁI BÁNH VẼ CỦA HỒ CHÍ MINH. Lời bình phẩm về hai chính sách cai trị với sự đề cao chế độ của miền Nam được trích từ Chương 1 DẪN (trang 21) trong quyển Vụ Án Siêu Nghiêm Trọng T2-T4, tác giả là Tâm Việt của nhóm Bùi Tín. Thực vậy, người dân miền Nam đã sống và được hưởng Những Ngày Tháng Năm Đẹp Của Thế Kỷ 20 và thành quả đó là nhờ nỗ lực Chống Cộng để Ngăn Chận Làn Sóng Đỏ từ phương Bắc của Quân Dân Cán Chính miền Nam. Cho nên chúng ta không ngạc nhiên khi người phóng viên của đài hỏi Vũ Thư Hiên “Có chống cộng hay không?”, tuy câu hỏi thật đột ngột ngay trong lần sơ ngộ.
Tiếng trả lời “Không” cụt ngủn đầy khí phách của Vũ Thư Hiên cũng không phải là không phát xuất từ một lập trường vững chắc. Có một thời trong lịch sử tiến hóa của nhân loại, khái niệm cộng sản được hiểu như thực thi công bình xã hội, phân chia miếng cơm manh áo đồng đều cho tất cả mọi người để cho ai ai cũng đều được ấm no hạnh phúc. Thật sự, đó là giấc mơ đẹp có sức quyến rũ tất cả mọi người, những triết gia, những nhà trí thức, những văn thi sĩ, những bậc giáo sư quý trọng của các trường đại học khắp nơi trên thế giới...
Chống Loại Cộng Sản Nào
Trong bài Một Thoáng Hoa Kỳ, Vũ Thư Hiên tác giả Đêm Giữa Ban Ngày, quyển hồi ký kiệt xuất mà anh cẩn thận ghi chú trong dấu ngoặc (Hồi ký chính trị của một người không làm chính trị), đã nói lên lập trường của mình về cộng sản như sau:
“Tôi là một người dân chủ có suy nghĩ. Tôi đã thích chủ nghĩa cộng sản. Như bố tôi đã thích. Như mẹ tôi đã thích. Vào cái thời thanh niên của ông bà, trong cuộc đấu tranh cho giải phóng dân tộc. Vào thời tôi, khi trước mặt tôi là quân xâm lược, sau lưng là tổ quốc phải bảo vệ. Rồi tôi không thích nó nữa, cái chủ nghĩa cộng sản mà tôi đã thấy trong thực tế. Ở nước ta. Ở Trung Quốc. Ở Liên Xô. Ở tất cả các nước gọi là xã hội chủ nghĩa khác. Nó là sự tàn bạo khoác áo nhân từ. Là sự cưỡng đoạt với bộ mặt cho của bố thí. Là sự đạo đức giả trơ trẽn.”
Lời bình của Vũ Thư Hiên về chủ nghĩa cộng sản còn dài, nhưng xin ngưng trích để nói vài dòng về anh. Vũ Thư Hiên sinh năm 1933, tại Hà Nội, trong một gia đình yêu nước. Cha anh là Vũ Đình Huỳnh, một nhà cách mạng lão thành, thành viên Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam từ năm 1930, nhiều lần ngồi tù Hỏa Lò và Sơn La, làm bí thư cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và Vụ trưởng Vụ Lễ Tân Bộ Ngoại Giao. Mẹ anh cũng là đảng viên Đảng Cộng Sản kỳ cựu, đã từng nuôi nấng, cung cấp tiền, và vào các nhà lao để thăm nuôi các đồng chí bị Pháp bắt trong thời gian Đảng còn hoạt động bí mật. Ông Vũ Đình Huỳnh về nghỉ hưu với huân chương Kháng Chiến Hạng Nhất, được 3 năm thì tai họa giáng xuống gia đình. Theo đơn khiếu nại của bà Vũ Đình Huỳnh thì đêm 18-10-1967 công an ập vào nhà bắt ông đi biệt giam, không có án lệnh. Vài tháng sau, trong mùa Giáng Sinh năm đó, đến phiên người con Vũ Thư Hiên cũng bị công an theo dõi bắt cóc đi mất.
Vào lúc đó, Vũ Thư Hiên đã lập gia đình và đã có hai con. Tiểu gia đình của anh cùng với đại gia đình gồm cha và mẹ anh là nạn nhân của Đảng Cộng Sản trong một vụ án thường được gọi là Vụ Án Xét Lại - Chống Đảng. Cùng bị bắt như hai cha con ông Vũ Đình Huỳnh và Vũ Thư Hiên là hàng chục cán bộ cao cấp khác. Danh sách thật dài, toàn là những đảng viên kỳ cựu đã vào sanh ra tử đóng góp mồ hôi và xương máu để đưa Kháng Chiến đến thành công và đưa Hồ Chí Minh từ vùng rừng núi Việt Bắc về Phủ Chủ Tịch ở Hà Nội. Những uẩn khúc của Vụ Án Xét Lại - Chống Đảng, nguyên do vì sao có vụ án, các nạn nhân bị tù đày chết chóc ra sao, hậu quả là Đảng đã ban hành những điều cấm kỵ nào không được phép bàn đến, tất cả những ẩn tình khúc chiết đó được Nguyễn Minh Cần tường thuật trong chương 5 nhan đề Những Trang Sử Đầm Đìa Nước Mắt Còn Chưa Chấm Hết của quyển Công Lý Đòi Hỏi (trang 85-126) và nhất là trong đại tác phẩm tố cáo Đêm Giữa Ban Ngày dài 767 trang của tác giả Vũ Thư Hiên là nhân chứng vừa là nạn nhân.
Đầu đuôi câu chuyện của Vụ Án ở Hà Nội năm 1967 lại bắt nguồn ở tận Mạc Tư Khoa, thủ đô của nước Nga. Nguyên nhân là 3 năm sau khi Stalin chết, trong kỳ Đại Hội 20 của Đảng Cộng Sản Liên Xô tháng 2 năm 1956, Khrushchev đã vạch trần tệ nạn sùng bái cá nhân, phơi bày tội ác kinh khủng của tên Đại Đồ Tể Stalin. Do đó, thần tượng Stalin bị sụp đổ sau hàng chục năm được tôn sùng. Thật là éo le trái khoáy, vì vào thời điểm đó, Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh vẫn còn được tôn sùng như thánh sống, nhất là ở miền Bắc Việt Nam, trên bàn thờ tổ tiên vẫn ngự trị ảnh của những Mác-Lê-Xít-Mao-Hồ.
Hai cha con Vũ Đình Huỳnh và Vũ Thư Hiên cùng những nạn nhân trong vụ án Xét Lại - Chống Đảng gặp tai nạn y như câu Tai Bay Họa Gởi dân gian thường nói. Thật đúng vậy, nạn nhân thì ở Hà Nội, mà Tai Họa thì từ Mạc Tư Khoa gởi về, từ Bắc Kinh bay xuống phủ chụp những cán bộ nhiều tuổi đảng dày công kháng chiến khiến họ vô phương cầu cứu. Có Hồ Chí Minh chễm chệ trong Phủ Chủ Tịch cũng bằng như không!
Về chủ nghĩa cộng sản, Vũ Thư Hiên viết tiếp: “Tôi không thích nó từ trước khi bị nó ném vào xà lim để dạy dỗ cho tôi tình yêu đối với nó. Trong nhà tù của nó tôi hiểu nó thêm. Và ghét nó hơn. Nhiều người đã đi qua đoạn đường ấy. Như tôi. Thích rồi không thích. Yêu rồi ghét.”
Lúc Vũ Thư Hiên viết những dòng chữ trên, tức đầu năm 2.000, thì anh đã sống đời tỵ nạn cộng sản trên đất Pháp được 4 năm, sau khi nhận thấy không thể ở Nga được vì công an từ Hà Nội sang tìm cách bịt miệng anh. Chạy qua Ba Lan cũng không ổn, anh phải chọn nước Pháp làm đất dung thân. Nhưng khi luôn mang nặng trong lòng bài học Đạo Bằng Hữu Phải Cho Có Thuỷ Chung trong sách Giáo Khoa Thư ngày xưa, nên về những người bạn còn ở Việt Nam, anh đã viết những dòng chữ thật đẹp:
“Hiện vẫn còn những người đang đi trên đoạn đường mà chúng tôi đã đi. Họ chưa đi hết. Họ chưa hiểu nó như tôi hiểu. Nhưng không phải vì thế mà họ là kẻ thù của tôi. Họ vẫn còn là bạn của tôi. Là những người tôi yêu mến. Những người tôi muốn vẫy gọi. Tôi tin: hiểu rồi, họ sẽ đi cùng tôi. Tôi không muốn họ hiểu lầm tôi. Tôi thấy cần phải rạch ròi trong những khái niệm. Tôi không muốn những người tốt, nhưng có điều chưa hiểu, trạnh lòng.”
Vũ Thư Hiên đã nói: “Tôi đã thích chủ nghĩa cộng sản”, rồi liền sau đó anh nói tiếp: “Rồi tôi không thích nó nữa, cái chủ nghĩa cộng sản mà tôi đã thấy trong thực tế.” Vũ Thư Hiên đã thích chủ nghĩa cộng sản rồi anh lại không thích, đã yêu rồi lại ghét, nhưng anh không mâu thuẫn với chính anh. Không, hoàn toàn anh không mâu thuẫn, bởi vì cái thứ cộng sản anh đã thấy trong thực tế hoàn toàn không phải là lý tưởng cộng sản chủ trương công bình xã hội, phân chia miếng cơm manh áo đồng đều cho tất cả mọi người. Cái thứ cộng sản mà Vũ Thư Hiên không thích là cái anh đã thấy trong thực tế ở miền Bắc đau thương. Đó là sự tàn bạo khoác áo nhân từ. Là sự cưỡng đoạt với bộ mặt cho của bố thí. Là sự đạo đức giả trơ trẽn. Đó chính là cái Chế Độ Cộng Sản mà Hồ Chí Minh đã dùng tất cả sự xảo trá gian dối cùng mưu đồ sách lược từng giai đoạn để mang về thực thi cho bằng được trên đất Việt thân yêu của chúng ta!
Hoàng Khoa Khôi Xuất Hiện
Thời điểm Vũ Thư Hiên nhận xét “trong thực tế” rằng có hai thứ cộng sản khác nhau, một thứ anh thích và một thứ anh không thích, là cuối thập niên 60, như thế thì cũng đã quá trễ! Hơn hai mươi năm trước, vào đầu thập niên 40, lúc Hồ Chí Minh vừa về nước “làm việc”, thì ở trên đất Pháp có gần 20 ngàn người Việt Nam làm lính thợ và lính chiến phục vụ nước Pháp trong Đệ Nhị Thế Chiến. Cộng đồng người Việt đó, nhờ ở trên đất Pháp được thông tin đầy đủ và được hướng dẫn đúng định hướng, nên đã sớm biết phân biệt cộng sản. Xin đọc nhận xét của Hoàng Khoa Khôi, một lão chiến sĩ Đệ Tứ Trotskist đã 80 tuổi, viết trong Lời Giới Thiệu (trang XXIII) cho quyển Người Việt Ở Pháp 1940-1954, do tác giả Đặng Văn Long sưu tầm và xuất bản ở Paris năm 1997:
“Ngày nay, sau khi bức tường Berlin sụp đổ, chế độ Liên Xô và Đông Âu băng hoại, có ai biết cách đây năm mươi năm, trong cộng đồng người Việt ở Pháp, có một đoàn thể đã sớm biết đánh giá Stalin là kẻ độc tài có bàn tay đẫm máu những người vô tội, trong lúc dư luận thế giới coi ông ta như một nhà lãnh tụ “vĩ đại”? Có ai hay những người đó đã biết nhận định những gì diễn ra ở Liên Xô và các xứ Đông Âu không phải là chế độ xã hội chủ nghĩa mà chỉ là những chế độ ngụy tạo?”
Theo Hoàng Khoa Khôi, đoàn thể đó là công chiến binh, tức là những lính thợ và lính chiến nói trên, và phong trào công chiến binh đã chấp nhận chủ nghĩa Mácxít là chủ nghĩa của mình, được giảng dạy và thảo luận thấu đáo, và họ đã ấn hành được bộ sách gồm 3 tập để làm sách gối đầu lưu hành trong các căn trại (Ghi chú thêm: sau ngày nước Pháp được giải phóng, tức 1944, giấy mực vô cùng khan hiếm, có tiền cũng không mua được, cho nên việc ấn hành một bộ sách 3 tập đó là một cố gắng và hy sinh phi thường). Kính thưa anh Vũ Thư Hiên, chủ nghĩa Mácxít mà phong trào công chiến binh ở Pháp quý trọng như vậy, phải chăng đúng là thứ lý tưởng cộng sản mà anh đã thích. Hoàng Khoa Khôi viết tiếp thêm rằng:
“Nó hoàn toàn không phải là thứ chủ nghĩa Mácxít của đảng Cộng Sản Việt Nam! Mácxít của công chiến binh là Mácxít nhân bản, tôn trọng dân chủ và nhân quyền, chứ không hề là thứ Mácxít bị xuyên tạc, bị pha trộn bởi chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Mao.”
Hoàng Khoa Khôi cho rằng chủ nghĩa Mác của công chiến binh là chủ nghĩa Mác nhân bản, tôn trọng dân chủ và nhân quyền và phát biểu thêm: “Có ai biết Nhóm Đệ Tứ Việt Nam khi thành lập (năm 1943) mới có 6 đảng viên, thì con số đó đã trở thành 519 vào năm 1952 và họ đã tham gia tích cực và đắc lực, cùng các đại biểu quốc gia khác, vào việc điều khiển và bảo vệ các tổ chức công chiến binh.”
Như vậy thì cộng sản cũng có ba bảy đường cộng sản khác nhau. Qua những điều vừa trình bày thì Chủ Nghĩa Mác nhân bản tôn trọng dân chủ và nhân quyền của Vũ Thư Hiên và của nhóm Công Chiến Binh hoàn toàn khác xa với Chế Độ Cộng Sản của Stalin, tức là thứ cộng sản ngụy tạo thừa kế từ đảng Bolshevik của Lenin mà tên rất thông dụng là Đệ Tam Quốc Tế (Komintern), và một tên khác nữa là nhóm Staliniens. Nó cũng hoàn toàn khác xa với thứ cộng sản do Hồ Chí Minh vận dụng tất cả sự xảo trá và mưu đồ sách lược từng giai đoạn để thực thi cho bằng được trên Đất Nước thân yêu của chúng ta. Vào thập niên 40, nhóm Công Chiến Binh ở Pháp đã chọn đúng định hướng trên con đường cộng sản là nhờ sự lãnh đạo của Nhóm Đệ Tứ. Trước đó khoảng hơn 10 năm, vào thập niên 30, ở miền Nam nước Việt xuất hiện hai nhóm cộng sản: nhóm Đệ Tam là Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Bạch Mai,… còn nhóm Đệ Tứ Quốc Tế còn gọi là Tả Đối Lập, là những người cộng sản theo đường lối cách mạng của Trotsky, do Tạ Thu Thâu lãnh đạo cùng với Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch… Trong thời gian đó, Hồ Chí Minh còn mang tên Nguyễn Ái Quốc và vẫn“cứ khư khư cái phương pháp Ngọa Ngoại Chiêu Hiền, Đãi Thời Đột Nội”, như nguyên văn bức thơ của Phan Châu Trinh đề ngày 18-2-1922 gởi cho ông để khuyên ông về Việt Nam hoạt động.
Hồ Chí Minh không nghe theo lời khuyên của Phan Châu Trinh, ông không về nước vội. Cộng nghiệp bất hạnh của Dân Tộc phối hợp với Định mệnh khắc nghiệt của cá nhân ông đã đưa bước chân “Kách Mệnh” của ông đi sang Nga, sang Tàu, xuống Xiêm, lại về Tàu, về Nga, rồi lại sang Tàu, về Việt Nam “làm việc” ở hang Pắc Bó tháng 2 năm 1941, lại sang Tàu, rồi sau cùng mới về Việt Nam. Hơn hai mươi năm dài, ông đã học hỏi kinh nghiệm để trở thành một người cộng sản chuyên nghiệp, đã dự nhiều khóa huấn luyện của KGB và chính ông cũng là huấn luyện viên để đào tạo biết bao nhiêu là cán bộ, nên khi Hồ Chí Minh trở về Việt Nam thì ông đã là Tên Cộng Sản Số Một, là Quốc Tế Ủy của Đệ Tam Quốc Tế, tức là Kominternchik của Komintern. Cho nên bộ hạ ông thường hãnh diện cho rằng cấp bậc của ông trong hàng ngũ Quốc Tế Cộng Sản cao hơn Chủ tịch Mao Trạch Đông ở Trung Quốc!
Nhìn lại ba thập niên 20, 30, và 40, một vấn đề vô cùng quan trọng đặt ra là Dân Tộc có tìm đúng Định Hướng trên con đường tranh thủ Độc Lập cho Đất Nước hay không? Đến bây giờ là Mùa Bịt Miệng 2007, Dân Tộc đã thấu rõ Con Đường Bác Đi theo Đệ Tam Quốc Tế, theo Lenin, theo Stalin, và sau cùng theo Mao là Con Đường Vô Cùng Bi Đát. Chúng ta thử xem định hướng của nhóm Đệ Tứ và những hoạt động của lãnh tụ Đệ Tứ là Tạ Thu Thâu như thế nào trên con đường cứu quốc.
Cuộc Đời Nhà Cách Mạng Tạ Thu Thâu
Tiểu sử của nhà cách mạnh Tạ Thu Thâu, từ lúc đi học đến khi làm cách mạnh tranh đấu chống Pháp, khi tổ chức biểu tình chống Pháp ở Paris hay khi làm báo ở Sài Gòn được tác giả Phương Lan Bùi Thế Mỹ tường thuật trong quyển Nhà Cách Mạng Tạ Thu Thâu, 1906-1945.
Tạ Thu Thâu sinh năm Đinh Mùi, nhằm ngày mùng 5 tháng 5 năm 1906, tại xã Tân Bình, quận Lấp Vò, tỉnh Long Xuyên, trong một gia đình lao động, nghèo nàn, đông con (sáu anh em cả thảy). Cha ông là Tạ Văn Sóc, làm nghề thợ mộc. Ông thợ mộc Hai Sóc thường đi vắng nhà ba bốn tháng, để lãnh đồ làm ở quanh vùng gần đó (trang 24 sđd). Nhà rất nghèo, nhưng Tạ Thu Thâu rất thông minh và học rất giỏi. Kỳ thi sơ học, Thâu đậu hạng 1 và lãnh hết 8 phần thưởng của tỉnh nhà.
Nhờ sự khuyến khích và lo thủ tục nạp đơn thi cùng quà tặng 20 đồng bạc Đông Dương làm lộ phí của ông Tổng Thơ Ký Hội Khuyến Học Long Xuyên là Nguyễn Quang Lạc, Thâu mới có phương tiện lên Sài Gòn để thi. Ông Lạc làm việc ở Bưu Điện Long Xuyên và số bạc 20 đồng vào thuở đó bằng nửa tháng lương của ông. Thâu đã đậu hạng 3 vào trường Bổn Quốc (sau là trường Chasseloup Laubat và đến Đệ Nhất Cộng Hòa đổi tên lại là Lê Quý Đôn).
Trong suốt thời gian ông học trung học ở Sài Gòn, cha ông chỉ cho ông 2 đồng mỗi tháng, nhưng ông Lạc đều đều gởi giúp, khi thì 3 đồng khi 5 đồng. Ông đã viết thơ cảm tạ ân nhân của mình và chỉ xin gởi 3 đồng là nhiều lắm rồi, đừng gởi 5 đồng (trang 44 sđd).
Ông học ở trường Bổn Quốc 2 năm rồi được đưa sang trường Sư Phạm gần Sở Thú. Ở miền Nam không phải đến thập niên 50 mới có phong trào Học Nhảy, tỷ như một học sinh đang học lớp Đệ Ngũ ở trường công, có thể ghi tên học song song lớp Đệ Tứ ở trường tư. Cuối năm nếu anh ta thi đậu bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp, anh ta có thể ghi tên học lớp Đệ Nhị để thi Tú Tài Phần Một, như vậy anh ta nhảy được 2 lớp Đệ Tứ và Đệ Tam và rút ngắn được 2 năm. Đọc sách xưa mới biết ở thập niên 20 đầu thế kỷ, Tạ Thu Thâu cũng đã học nhảy như vậy. Trường hợp của Thâu, ông đã nhảy lớp 4è Année tức là lớp Đệ Tứ. Cuối năm 3è Année, lúc ông được 17 tuổi, đi thi chung với những thí sinh lớp 4è, ông đã đậu bằng Tốt Nghiệp Diplôme và đậu luôn cả bằng Brevet Elémentaire.
Với bằng Brevet Elémentaire, giá trị cao hơn bằng Diplôme, ông có thể xin vào ngạch giáo sư để dạy trường công, nhưng vì chưa đủ tuổi, nên ông lại dự thi lấy học bổng để vào Ban Trung Học Bổn Xứ để thi bằng Brevet Supérieur. Cuối năm đó, Tạ Thu Thâu đậu phần một và phần hai, và sang năm sau là năm 1925, lúc ông được 19 tuổi, ông đậu phần ba của bằng Brevet Supérieur. Năm đó, đề thi thật khó, bao nhiêu sĩ tử, cả Pháp lẫn Nam, rơi rụng như lá mùa thu, Tạ Thu Thâu lại đậu cao. Do đó, ông Chánh chủ khảo người Pháp tên Grandjean, thạc sĩ Sử Địa, thấy Thâu có tài, học giỏi, mới khuyến dụ Thâu vào làm giáo sư chánh ngạch ở Ty Giáo Huấn và hứa sẽ đỡ đầu để nhập Pháp tịch cho được lương cao.
Điểm Khác Biệt Đầu Tiên Giữa Hồ Chí Minh Và Tạ Thu Thâu
Theo dõi cuộc đời học sinh của Tạ Thu Thâu, ta thấy có điểm lạ là Thâu nhiều lần muốn bỏ học để đi làm phụ giúp gia đình vì nhà quá nghèo. Hai lần Thâu muốn bỏ học và cả hai lần ông Hai Sóc cha Thâu dọa sẽ tự tử nếu Thâu bỏ học. Điều lạ lùng là khi Tạ Thu Thâu đã đậu bằng Brevet Supérieur, có thể làm giáo sư chánh ngạch, lại được Chánh chủ khảo Grandjean đỡ đầu vào Pháp tịch để được lương cao, thì ông lại khước từ. Tác giả Phương Lan Bùi Thế Mỹ chỉ ghi lại rằng (trang 68 sđd): “Khuyến dụ thế nào, Thâu vẫn từ chối địa vị cao lợi ấy, để tự chọn con đường cho mình đi.”
Cuộc đời công chức thời Pháp Thuộc được hưởng cao lợi với “tối rượu sâm banh sáng sữa bò” đậm đà mùi đỉnh chung không làm mềm lòng Tạ Thu Thâu, người thanh niên 19 tuổi yêu nước của tỉnh Long Xuyên. Nhưng với Hồ Chí Minh thì khác. Nhắc lại chuyện hồi năm 1911, lúc Hồ Chí Minh còn mang tên Nguyễn Tất Thành, vừa mới đặt chân lên đất Pháp thì đã nạp đơn xin học trường Thuộc Địa. Vì quá ham, nên Bác đã viết hai lá đơn gởi đến hai chỗ: một gởi cho trường và một gởi cho tổng thống Pháp! Trong đơn Bác viết sai một lỗi chính tả tiếng Pháp, đơn không được cứu xét, Bác đành phải tìm con đường tiến thân khác. Đây là điểm khác biệt đầu tiên giữa Hồ Chí Minh theo Đệ Tam Quốc Tế và Tạ Thu Thâu thuộc nhóm Trotskist. Hồ Chí Minh muốn tiến thân trên con đường hoạn lộ của Chế Độ Pháp Thuộc nhưng không được toại nguyện. Ngược lại, con đường đó mở rộng thênh thang cho Tạ Thu Thâu nhưng ông lại không vào.
Con đường Tạ Thu Thâu tự chọn cho mình là không phục vụ chính quyền thuộc địa. Ông đi làm giáo sư dạy các trường trung học tư thục như trường Nguyễn Phan Long và trường Nguyễn Xích Hồng (sau đổi tên lại là Nguyễn Trọng Kỳ). Ông nổi tiếng là dạy giỏi nên các trường tư cố mời cho được ông giảng dạy ở trường mình.
Vào năm 1925, khi Tạ Thu Thâu thi đậu bằng Brevet Supérieur, miền Nam vô cùng sôi động. Vốn yên lặng từ mấy chục năm qua, đùng một cái phong trào ái quốc Nguyễn An Ninh nổi lên với tờ báo tiếng Pháp La Cloche Fêlée (Tiếng Chuông Rè) và các cuộc diễn thuyết Cao Vọng Thanh Niên tại Hội Khuyến Học Nam Kỳ cùng với cuộc nói chuyện của Phan Châu Trinh về Luân Lý Và Đạo Đức Đông Tây và một lần khác về đề tài Quân Trị Dân Trị. Sau đó, thêm vụ cụ Phan Bội Châu bị Pháp bắt ở Thượng Hải giải về xử tại Hà Nội. Cả nước bùng nổ một phong trào tranh đấu quyết liệt ủng hộ và xin ân xá cụ Phan. Do đó, chính quyền thuộc địa Pháp nhượng bộ, chỉ phê chuẩn một án treo và đưa cụ an trí ở Huế.
Qua năm 1926, cụ Phan Châu Trinh từ trần. Đồng bào toàn quốc cử hành lễ truy điệu rất long trọng. Vì lễ truy điệu cụ Phan mà nảy ra phong trào học sinh và sinh viên bãi khóa suốt từ Nam chí Bắc. Người Pháp phản ứng vụng về nên nhiều sinh viên đã bỏ học để tìm cách xuất ngoại tham gia phong trào cách mạng ở Tàu, ở Pháp, ở Nga.
Đến năm 1927, lại xảy ra biến cố bãi khóa ở Huế. Nguyên do có một giáo sư người Pháp dạy trường Quốc Học ở Huế, trong lúc la rầy một học sinh, lại chửi mắng cả dân tộc và nhục mạ cụ Phan Bội Châu, lúc đó đang bị an trí tại Huế. Cuộc bãi khóa phản đối vị giáo sư kỳ thị chủng tộc này có tầm rộng lớn lôi cuốn học sinh hai trường khác ở Huế là trường Đồng Khánh và trường Pellerin. Nhân vụ này cũng có một số học sinh bỏ trường tìm đường xuất ngoại để tham gia cách mạng kháng chiến chống Pháp.
Từ 1925 đến 1927, Tạ Thu Thâu vừa dạy học ở các trường tư thục ở Sài Gòn, vừa đọc sách nghiên cứu và âm thầm hoạt động với nhiều anh em đồng chí. Vốn ngưỡng mộ ông Thánh Gandhi bên Ấn Độ với phong trào The Young India, Tạ Thu Thâu âm thầm tổ chức một đảng thanh niên lấy tên là Đảng Jeune Annam. Đảng Jeune Annam ra đời, Thâu nắm ban tổ chức, với thành phần thanh niên yêu nước bồng bột như Trịnh Hưng Ngẫu, Nguyễn Văn Số, Bùi Công Trừng, Hà Huy Giáp, Nguyễn Khánh Toàn, Trần Ngọc Danh, v. vân... Theo gương Nguyễn An Ninh đã sáng lập tờ “Tiếng Chuông Rè”, Đảng Jeune Annam của Tạ Thu Thâu thành lập báo “Nhà Quê” cũng là tờ báo tiếng Pháp, cũng theo đường lối của Nguyễn An Ninh, chỉ trích mạnh, hô hào nhiều. Càng nói mạnh, càng chỉ trích, báo càng bị tịch thu và bị bắt bớ nhiều, vì thế chỉ ra có mấy số là hết vốn, phải ngưng xuất bản (trang 80 sđd).
Sau đó, Tạ Thu Thâu tìm cách xuất ngoại sang Pháp du học. Tác giả Phương Lan, trong chương Đại Bàng Tung Cánh tường thuật như sau (trang 84 sđd): “Tạ Thu Thâu nhờ dạy kèm con cho những ông nhà giàu, họ cảm đức độ, tài học Thâu, nên họ nhờ Thâu làm người hướng dẫn, giám hộ, dìu dắt, trông nom con họ du học theo Thâu. Họ tín nhiệm Thâu, giao gần 20 đứa trẻ, cho Thâu đưa đi Pháp học. Tất nhiên sở phí đi về, ăn học, họ phải chung nhau đài thọ cho Thâu, để Thâu nhận trách nhiệm lo lắng, dạy dỗ con họ khi ở đất khách quê người.”
Đến Pháp, Tạ Thu Thâu lo chỗ ăn chỗ học cho gần 20 học sinh đó, rồi mới lên Paris tìm gặp Nguyễn Thế Truyền, mà Thâu được biết tên lúc còn ở trong nước khi đọc qua những bài báo đầy tâm huyết của ông. Tạ Thu Thâu có ghi tên học chứng chỉ Toán Đại Cương. Ngoài giờ học, Thâu thường đến bàn luận chánh trị với Nguyễn Thế Truyền, một già một trẻ rất là tương đắc.
Người Mang Biệt Danh “Nguyễn Văn Marx”
Theo tác giả Phương Lan Bùi Thế Mỹ, Nguyễn Thế Truyền đã theo đảng cộng sản, nhưng nhận rõ chủ nghĩa đó không đúng sở thích và đường lối của người Việt Nam, nên Truyền ly khai, tách ra lập Việt Nam Độc Lập Đảng, viết tắt là P.A.I theo tiếng Pháp “Parti Annamite de l’Indépendance” (trang 90 sđd). Đến khi Nguyễn Thế Truyền về nước hoạt động cùng với Nguyễn An Ninh, ông mới bàn giao VNĐL Đảng lại cho Tạ Thu Thâu lãnh đạo. Thâu lại được Hội Tiếp Rước Du Học Sinh Việt Nam biết tiếng, nghe danh, mới mời Thâu làm đại diện cho hội tại Paris. Thâu bị cuốn hút vào chính trị cho nên bỏ học. Thâu đọc nhiều, nghe diễn thuyết nhiều, tranh luận nhiều nên rất nổi tiếng ở Paris. Có câu chuyện Thâu đến dự thính ở diễn đàn Madeleine, Paris, khoảng đầu năm 1930 (trang 120 sđd), Thâu đứng lên chất vấn nhiều vấn đề, làm cho diễn giả là nhà văn Jean Guéhenno khó trả lời thông suốt. Sự lúng túng, trả lời không chính xác của diễn giả, do những câu hỏi hóc búa của Thâu, làm cho các bạn bè Thâu hết sức ngạc nhiên, không ngờ Thâu đã thấm nhuần chủ nghĩa Marx một cách tinh vi, sâu đậm đến thế. Do đó, Thâu nổi tiếng với biệt danh là “Nguyễn Văn Marx” trong giới du học sinh, nhà văn, nhà báo và chính trị gia. Một nhà báo tên tuổi là Luc Durtain cũng đã viết về Thâu là “Nguyễn Văn Marx” trong quyển sách của ông nhan đề Dieu Blanc, Homme Jaune. Càng lậm vào chủ nghĩa Marx, Thâu càng đả phá lý thuyết Marx. Tác giả Phương Lan đã viết về Tạ Thu Thâu và lý thuyết Marx như sau (trang 123 sđd):
“Tánh đơn thuần, nhơn hậu, giàu tình cảm đã sẵn có trong dòng máu Thâu, từ ngày ra đời, đối với gia đình là người con chí hiếu, với bạn bè là người bạn thủy chung, đối với dân tộc là người hết lòng binh vực, nâng đỡ, thì Thâu đâu có thể theo chủ nghĩa Marx với đường lối của Staline được. Vì những lý do đó, càng biết nhiều về Marx, Thâu càng xa đảng Cộng sản bấy nhiêu.”
Trong chương Vì Sao Thâu Là Trotskyste, tác giả Phương Lan viết (trang 120 sđd):
“Rồi vô tình, hay định mạng đưa đàng dẫn lối, nhơn vụ Yên Bái xảy ra, mười ba vị liệt sĩ bị Pháp kêu án tử hình, Thâu tình cờ đọc được một bài trong báo La Vérité của nhóm Trotskystes, một nhóm không đông, độ 10 người trông nom xuất bản, có nêu lên những lý thuyết nói về thuộc địa rất hay, hạp theo đúng lý tưởng của Thâu. Rồi Thâu thích và xin nhập đảng nầy, dù từ lâu Thâu từ chối không vào đảng Cộng sản Pháp hay sang Nga du học như phần đông sinh viên thuở ấy.”
Điểm Khác Biệt Thứ Hai Giữa Hồ Chí Minh Và Tạ Thu Thâu
Đến đây, ta tìm thêm được một điểm khác biệt giữa Tạ Thu Thâu và Hồ Chí Minh. Thâu thấu đáo chủ nghĩa Marx đến độ được gán cho biệt danh là Nguyễn Văn Marx. Nhưng càng hiểu nhiều về Marx, Thâu càng xa đảng Cộng sản bấy nhiêu và Thâu không thể nào theo chủ nghĩa Marx với đường lối của Stalin được. Thâu cũng không gia nhập đảng Cộng sản Pháp và cũng không sang Nga du học như phần đông sinh viên thuở ấy.
Nhưng Hồ Chí Minh thì khác hẳn. Trong sách Trần Dân Tiên, Hồ Chí Minh đặt chuyện rằng có “một người quen với ông Nguyễn ở Pa-ri” thuật cho Trần Dân Tiên rằng: “Lúc ấy, ông Nguyễn (tức là Hồ Chí Minh lúc còn mang tên Nguyễn Ái Quốc) là một người yêu nước quyết tâm hy sinh tất cả cho Tổ Quốc; nhưng ông Nguyễn lúc đó rất ít hiểu về chính trị, không biết thế nào là công hội, thế nào là bãi công và thế nào là chính đảng… Ông Nguyễn không đủ tiếng Pháp để viết.” Khi trả lời nữ đồng chí Rose về lý do vì sao ông tán thành gia nhập Đệ Tam Quốc Tế, ông đáp: “Tôi không hiểu thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản… Nhưng tôi hiểu rõ một điều: “Đệ Tam Quốc Tế rất chú ý đến vấn đề giải phóng dân tộc.” Đã thú nhận ít hiểu biết về chính trị và kém tiếng Pháp như vậy thì làm sao đọc và hiểu được Luận Cương Về Chủ Nghĩa Dân Tộc Và Chủ Nghĩa Thực Dân của Lênin? Trong bài Con Đường Dẫn Tôi Tới Chủ Nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh viết: “Một đồng chí trao cho tôi đọc Luận Cương… của Lênin được công bố trên tờ Nhân Đạo (L’Humanité)… Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là thứ cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!” Từ đó, tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc Tế Thứ Ba”. Khi bắt gặp bản Luận Cương của Lênin, Hồ Chí Minh quá đổi vui mừng! Đến bây giờ xét lại và đánh giá sự vui mừng đó, thật sự đó là sự vui mừng của riêng “ông Nguyễn” đã tìm được phương cách tiến thân cho đời mình! Thật đúng vậy, mối lợi đầu tiên là 1000 quan đảng Cộng Sản Pháp cấp cho “ông Nguyễn” làm lộ phí cho ông sang Nga (trích bài Giáo Sư Tôn Thất Thiện, đăng chung với 9 tác giả trong quyển Hồ Chí Minh, Sự Thật Về Thân Thế Và Sự Nghiệp, trang 62). Số tiền đó khá lớn, một sinh viên du học có thể sống trong 5 tháng. Thế rồi như một vị khách du lịch sang trọng, với tiền do Đảng Cộng Sản Pháp cung cấp, “ông Nguyễn” rời Pháp sang Nga năm 1923 để học nghề làm cộng sản, để trở thành Kominternchik, và sau đó về Việt Nam tàn phá Đất Nước và giết hại Dân Tộc!
Cuộc Cách Mạng Đã Bị Phản Bội
Tình hình chánh trị của Liên Xô sau khi Lenin từ trần và Stalin lên thay thế đột nhiên có nhiều biến chuyển to lớn. Quyển Cuộc Cách Mạng Bị Phản Bội của Leon Trotsky viết năm 1936 được Nhóm Nghiên Cứu ở Pháp dịch sang tiếng Việt năm 1992 với Lời Giới Thiệu của Hoàng Khoa Khôi, một lão chiến sĩ Đệ Tứ. Lời Giới Thiệu dài 10 trang sách, xin tóm lược và trích những ý chính như sau:
“Cuộc Cách Mạng Tháng Mười đã bị phản bội. Kể từ 1925 nền dân chủ Xô Viết mà Cách Mạng 1917 khai trương, không còn nữa. Lợi dụng giai đoạn thoái trào quần chúng, một tầng lớp quan liêu, do Stalin đứng đầu, đã cấu kết nhau, nhảy ra lũng đoạn các cơ quan đảng, Nhà nước, nghiệp đoàn, cùng các tổ chức quần chúng. Chúng tước đoạt quyền hành của lao động, loại trừ và giết hại các chiến sĩ cách mạng, xuyên qua những vụ án bịa đặt, đẫm máu.”
“Để thiết lập nền độc tài một đảng, quyền lực một lãnh tụ, Stalin và đẳng cấp quan liêu đã thi hành luật lệ và các biện pháp thu hẹp quyền dân chủ. Thanh niên bị tước đoạt quyền chính trị. Trí thức, văn nghệ sĩ bị bịt mồm, bịt miệng. Dân chúng bị kiểm soát từng lời nói, ý nghĩ, việc làm. Xã hội đầy rẫy những kẻ nịnh hót, tham ô, đầu cơ, trục lợi. Bọn hãnh tiến ngoi lên. Người trung thực bị trù dập. Đảng và Nhà nước lựa chọn những người đại diện cho mình, không lựa chọn theo khả năng mỗi người mà chỉ dựa trên một tiêu chuẩn duy nhất: trung thành với Stalin và với đảng. Kết cục: chỉ lựa chọn một lũ người cơ hội và giả dối.”
Lời Giới Thiệu vừa trình bày bên trên của Hoàng Khoa Khôi cũng là Bản Cáo Trạng của Trotsky tố cáo Stalin độc tài phá hư cuộc Cách Mạng Tháng Mười, đồng thời nó cũng tô vẽ bức tranh xã hội bi thảm của đất nước Liên Xô dưới sự thống trị của Stalin và Tập Đoàn của ông. Một xã hội Liên xô bi thảm như vậy, nếu nó cưu mang Hồ Chí Minh thì nó chỉ nuôi dạy ông thành người hãnh tiến, cơ hội, trục lợi, giả dối, và nịnh hót Stalin mà thôi. Cùng với sự thống trị của Stalin nảy sinh một danh từ mới là Staliniens. Tuy hai từ Đệ Tam Quốc Tế và Nhóm Staliniens chỉ là một thực thể, nhưng từ Staliniens có nội hàm hẹp hơn vì nó không mang ý nghĩa “quốc tế rộng rãi theo địa lý” mà nó có nghĩa thu hẹp là “Phe nhóm Stalin và Tập Đoàn của ông”. Do đó ta phải hiểu rằng Đệ Tam Quốc Tế không thật sự là quốc tế gì cả mà chỉ là của chính Stalin mà thôi! Thật vậy, Đệ Tam Quốc Tế đã bị một mình Stalin quyết định khai tử vào tháng 6-1943 theo nhu cầu của Liên Xô. Vào lúc đó, Liên Xô bị Đức tấn công mãnh liệt cho nên Stalin cần Hoa Kỳ viện trợ để chống trả, cho nên phải giải tán Đệ Tam Quốc Tế để cho Hoa Kỳ yên tâm.
Lời Trối Của Nhà Cách Mạng Nguyễn An Ninh
Nhân nói đến từ Staliniens, thì nên tìm đọc lại Lời Trối Của Nhà Cách Mạng Nguyễn An Ninh. Nhắc lại giai đoạn cuối thập niên 30, khi Đệ Nhị Thế Chiến sắp sửa bùng nổ, Thực Dân Pháp ra tay trước bằng cách bắt những người Việt hoạt động chính trị Đệ Tam, Đệ Tứ, và cả Nguyễn An Ninh đem giam ngoài Côn Đảo. Đến khi Nhật đảo chánh Pháp, thì các chính trị gia mới được tự do. Nhưng Nguyễn An Ninh đã chết ngoài Côn Đảo ngày 14-8-1943 và Tạ Thu Thâu là người huynh đệ nhỏ vừa là người thân cận nhất của Nguyễn An Ninh trong những ngày cuối của đời ông. Khi được tự do về được đất liền, Tạ Thu Thâu tâm sự với Đỗ Bá Thế tự Minh Hải là người em kết nghĩa của ông như sau (trích Nhà Cách Mạng Tạ Thu Thâu của tác giả Phương Lan, trang 324):
“Lúc anh Ninh ở Sài Gòn còn mập mạnh, ra Côn Đảo vài năm sau sức khỏe anh xuống quá nhiều. Anh đau ốm liên miên. Trong lúc đó, bọn anh Lê Duẩn, Tôn Đức Thắng để khủng bố tinh thần anh, chúng nó lập tiểu tổ để phê bình những người không cùng chánh kiến. Anh đây cũng bị chúng nó áp đảo tinh thần suốt mấy năm trời trong lao.”
“Đã nhiều lần anh cố khuyên anh Ninh rán chịu đựng! Nhưng sức khỏe của ảnh quá kiệt quệ, bịnh thiếu sinh tố càng làm cho ảnh xuống tinh thần nữa. Đến một hôm không còn hy vọng gì kéo dài cuộc sống tù tội, ảnh có nói một câu: “Thâu, em có về được đất liền nhờ nói với con anh, bảo chúng nó phải phòng ngừa bọn xít-ta-liên-niên.” Ảnh chết! Chết vì quá mòn mỏi! Khi anh em chôn cất ảnh xong, anh thức gần mấy tháng trời suy nghĩ về câu nói của anh Ninh”.
Lời Trối của Nguyễn An Ninh “Phải phòng ngừa bọn Xít-ta-liên-niên” không đến được với gia đình ông, thì làm sao đến với Dân Tộc để Dân Tộc biết mà đề phòng! Còn Tạ Thu Thâu khi bị Việt Minh Cộng Sản sát hại ở Quảng Ngãi vào khoảng tháng 9 năm 1945 thì đã mang Lời Trối ấy xuống tuyền đài! Bây giờ, Dân Tộc còn biết được Lời Trối ấy, xin tri ân tác giả Phương Lan Bùi Thế Mỹ và nhà xuất bản Khai Trí của ông Nguyễn Hùng Trương đã hoàn thành và xuất bản quyển Nhà Cách Mạng Tạ Thu Thâu 1906-1945 ngày 5-1-1974 ở Sài Gòn. Thật quá trễ!
Một Đoạn Đối Thoại Lý Thú
Vào năm 1930, Tạ Thu Thâu gặp Hồ Hữu Tường ở Marseille. Lúc đó, Tạ Thu Thâu là đại diện Hội Tiếp Đón Du Học Sinh Việt Nam ở Paris và là thủ lãnh Việt Nam Độc Lập Đảng, còn Hồ Hữu Tường vừa đậu tú tài và ghi tên học một Phân Khoa ở Marseille. Làm xong công việc của Hội Tiếp Đón, hai người kéo nhau ra quán cà phê “Du Chapitre” trụ sở của Hội để tâm tình. Qua mẩu đối thoại ngắn, ta biết được định hướng chính trị của hai vị đáng được gọi là “trí thức ưu thời mẫn thế” vào thuở đó, tuy họ còn rất trẻ: Tạ Thu Thâu 24 tuổi và Hồ Hữu Tường 19. Sinh viên Hồ Hữu Tường hỏi ý kiến bậc đàn anh Tạ Thu Thâu (Trích Nhà Cách Mạng Tạ Thu Thâu, tác giả Phương Lan Bùi Thế Mỹ, trang 270).
-- Nếu muốn làm việc, nên đọc sách gì?
-- Quyển “Le Matérialisme Historique” (Duy Vật Sử Quan) của Boukharine.
-- Tôi đọc rồi.
-- Vậy thì đọc thêm “Questions Fondamentales Du Marxisme” (Vấn Đề Căn Bản Của Chủ Nghĩa Marx).
-- Tôi cũng đọc rồi.
-- Vậy thì đọc “Précis d’Économie Politique” (Kinh Tế Học Yếu Lược) của Ostrialow.
-- Cũng rồi nữa.
-- Thì đọc bộ “Capital” (Tư Bản) của Marx.
-- Tôi đương đọc.
-- Mầy có vào đảng Cộng Sản không?
-- Không…
-- Sao vậy?
-- Vì tôi nhận thấy hiện nay nước Nga tiến vào con đường khác hơn là đường lối của Marx…
-- Tao cũng vậy. Tao đọc sách ít hơn mầy, song thường nghe tranh biện ở Paris hơn, tao cũng biết việc xứ Nga tiến vào một con đường khác. Vì lẽ đó tao nhận thấy hoạt động cho đảng P.A.I, cho dân tộc, còn hơn là chui đầu vào một chiếc tàu mà mình biết không ghé cái bến mà mình trông mong.
Con Đường “Bác Đi” Trở Thành “Bi Đát”
Hai nhà trí thức Tạ Thu Thâu và Hồ Hữu Tường đáng được gọi là “thức thời” vào thuở đó nên không chọn con đường sang Liên Xô để theo Stalin. Nhưng Hồ Chí Minh đã chọn con đường đó. Con đường “Bác Đi” trở thành “Bi Đát” bởi vì Bác đã đi theo “Cuộc Cách Mạng Đã Bị Phản Bội”. Đến bây giờ là Mùa Bịt Miệng 2007, nhìn lại con đường dẫn Hồ Chí Minh đến Lenin và Stalin, tuyệt nhiên đó không phải là con đường Giải Phóng Dân Tộc. Trên con đường đó, “ông Nguyễn tức Hồ Chí Minh” cho rằng đã gặp “mặt trời rực sáng soi đường dẫn lối tới thắng lợi cuối cùng, tới xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa”. Nhưng thật sự trên con đường đó, Hồ Chí Minh vào lúc chưa đuổi được hổ, thì đã rước hai con hùm vào nhà rồi. Trên con đường “Bác Đi trở thành Bi Đát” đó, cuối cùng Hồ Chí Minh đã xây dựng được một chế độ mà Trần Độ miêu tả trong Nhật Ký Rồng Rắn (được viết từ ngày 14-11-2000 đến ngày 7-5-2001, tức là từ năm Canh Thìn tới năm Tân Tỵ):
“Nền chuyên chính tư tưởng hiện nay ở Việt Nam là tổng hợp các tội ác ghê tởm của Tần Thuỷ Hoàng và các vua quan tàn bạo của Trung Quốc, cộng với tội ác của các chế độ phát xít, độc tài.”
Nhưng Trần Độ nào phải là một khuôn mặt xa lạ đối với Đảng. Ông là một đảng viên kỳ cựu, gia nhập Đảng từ năm 1940. Trong quân đội ông là Trung Tướng. Trong chính trị ông là Ủy viên Trung ương giữ chức Trưởng ban Văn Hóa Văn nghệ. Trong Quốc hội ông đảm trách chức vụ Phó Chủ tịch. Ông cũng là một nhà văn đã sáng tác Lòng Tin (1953), Kể Chuyện Điện Biên (1964), Nhật Ký Rồng Rắn (2001, bị Đảng tịch thu). Khi về hưu, tướng Trần Độ nhiều lần đề nghị đổi mới và dân chủ hoá, nhưng không được đáp ứng mà còn bị chỉ trích, vu khống. Sau cùng, Trung tướng Trần Độ bị Đảng khai trừ (1-1999). Đến khi ông qua đời (ngày 9-8-2002), Đảng vì dị ứng với ý tưởng dân chủ của ông nên mới bày trò nhục mạ vong linh ông và làm khó dễ tang gia trong việc tống táng chỉ với chủ đích răn đe và khủng bố những bạn bè thân hữu của ông đang đứng trong chiến tuyến tranh thủ tự do dân chủ cho Dân Tộc. Do vậy, Đảng không những tàn bạo và dã man như Cố Trung Tướng Trần Độ đã phê bình, với sự nhục mạ vong linh ông và gây khó dễ cho tang gia, thì Đảng thật hèn hạ và thô bỉ vô cùng!
Bây giờ, xét lại chuyện cũ hơn 70 năm về trước, chúng ta mới nhận thấy nhà cách mạng Đệ Tứ Trotskist Tạ Thu Thâu với biệt danh Nguyễn Văn Marx đã rất sáng suốt không gia nhập đảng Cộng sản và không đi qua Nga du học. Còn Hồ Chí Minh học lực kém, tiếng Pháp không giỏi, không được nhận vào học Trường Thuộc Địa của Pháp, kiến thức về chính trị thường thường bậc trung như ông đã thú nhận, ông không có gì đặc sắc trong số người Việt trên đất Pháp vào thuở đó, nên ông đã vội vàng chụp lấy cơ hội đi qua Nga học nghề làm cộng sản để di họa cho Dân Tộc không biết bao nhiêu đời. Như vậy, Hồ Chí Minh đúng là người theo “cơ hội chủ nghĩa”, chữ của cộng sản thường dùng để bêu xấu mạ lỵ đối thủ của họ, ở đây, xin hoàn trả lại cho “Bác Hồ” của chúng!
Đệ Tam Và Đệ Tứ “Đi Chung Đánh Riêng”
Thời điểm đầu năm 1933 ở miền Nam, sau khi mãn tù, Nguyễn An Ninh nhìn thấy cảnh “Ngao cò tranh nhau, ngư ông đắc lợi” nên mới dùng uy tín của mình để liên kết Tạ Thu Thâu và Nguyễn Văn Tạo thành một nhóm có tên là Nhóm Tranh Đấu với chủ trương là “Đi Chung Đánh Riêng”, tức là không chống đối và giết hại nhau, chỉ đánh thực dân Pháp bằng đường lối riêng của từng nhóm. Họ chung nhau xuất bản tờ báo “La Lutte” tranh đấu trong vòng hợp pháp, có xu hướng chánh trị binh vực giới nông dân thợ thuyền. Nhưng tờ báo lại là tờ báo Pháp ngữ, bài vở viết bằng tiếng Pháp vì vào thuở đó rất khó xin được giấy phép ra báo tiếng Việt. Thế là báo “La Lutte” ra đời, bán 6 xu một số, mỗi tuần ra một lần, ba nhóm cùng nhau viết bài, nhóm Đệ Tam của Nguyễn Văn Tạo, Trần Văn Giàu, nhóm Đệ Tứ của Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, và nhóm Quốc gia Trung Hòa Tiến Bộ của Nguyễn An Ninh.
Tình hình trong thế giới cộng sản vào lúc đó thì Đệ Tam Quốc Tế và Đệ Tứ đều coi nhau như thù nghịch, thù nghịch tới mức còn nghiêm trọng hơn giữa Cộng Sản và Tư Bản. Nhưng trong tác phẩm của Phương Lan về Nhà Cách Mạng Tạ Thu Thâu 1906-1945, ta đọc được những dòng chữ thật đẹp về sự hợp tác của Đệ Tam và Đệ Tứ ở miền Nam nước Việt như sau (trang 156 sđd):
“Sự thù nghịch như thế đó, đối nghịch nhau như thế đó, xu hướng khác nhau như thế đó, mà hôm nay tại cái miền Nam nước Việt nầy, hai phe thù nghịch không đội trời chung lại nhân nhượng nhau, hợp tác nhau trong một nhóm, trong một tờ báo mang tên La Lutte. Nghĩ cũng lạ thường hơn người ta. Nguyên nhân lạ thường có một không hai đó, một phần là do nơi bản chất người Việt Nam, một phần do nhu cầu cần thiết cho cả hai phe Tam và Tứ trong lúc đó đòi hỏi.”
Tác giả Phương Lan còn viết thêm rằng do nơi Nguyễn An Ninh, người đàn anh cách mạng, đứng giữa hai phe, đã dùng lối trung dung, khuyến khích, làm môi giới cho hai phe cùng chung thống nhứt lực lượng chống đế quốc thực dân. Dù lâu, dù mau, nhưng giai đoạn hợp đoàn phản đế, cũng gây được tiếng vang trên thế giới. Sau rồi, khi mỗi nhóm được mạnh tiến, chia rẽ cũng chẳng làm sao. Chớ một sự hợp tác như vậy là một việc thật ngoại lệ, đặc biệt, có một không hai trong thế giới Cộng sản, trên tinh thần kỷ luật sắt của họ.
Trong tác phẩm Phan Văn Hùm, Thân Thế Và Sự nghiệp, tác giả Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu cũng có đôi dòng ca ngợi sự hợp tác giữa hai phe Cộng sản như sau (trang 57):
“Trong chiều hướng cùng nhau tranh đấu chống kẻ thù chung của đất nước là thực dân Pháp, Nguyễn An Ninh đã thực hiện được ở miền Nam một liên minh giữa những người cộng sản theo xu hướng Staline và những người cộng sản theo xu hướng Trotsky. Trong khi đó trên hầu khắp thế giới, các đảng cộng sản theo xu hướng Staline đã được chỉ thị phải vu cáo, chửi rủa, mạ lỵ cánh cộng sản Tả Đối Lập theo đường lối Trotsky. Đây là một liên minh duy nhất trên thế giới, đã được các sử gia như Daniel Hémery để tâm nghiên cứu về sau nầy. Liên minh đó đã tồn tại được ba năm. Liên minh đã thỏa thuận không đá động đến xu hướng Staline hay Trotsky, các bài báo sẽ không có ký tên tác giả, tránh bàn đến xu hướng đối nghịch, chỉ cố cùng nhau quảng bá cơ sở lý luận chung của tư tưởng Karl Marx.”
Stalin Chửi Trotsky, Hồ Chí Minh Lặp Lại
Nhưng sự hợp tác thân hữu giữa hai phe Tam Tứ ở miền Nam đất Việt không kéo dài được lâu. Sự tan rã đó lại bắt nguồn từ Mạc Tư Khoa vì sau Đại Hội 7 của Liên Xô năm 1935, Stalin quyết định triệt hạ cho bằng được Trotsky và các đồng chí Đệ Tứ của ông. Trong quyển hồi ký chính trị Mặt Thật, tác giả Bùi Tín trích dẫn bài viết của Stalin đăng trên báo Sự Thật Pravda ở Mạc Tư Khoa ngày 14-3-1937 như sau (Mặt Thật, trang 113):
“Chủ nghĩa Trốt-kýt dùng phương pháp đấu tranh hèn hạ nhất, nhơ bẩn nhất, khốn nạn nhất. Nấp trong bóng tối, đàn chó Trốt-kýt tụ tập những kẻ không còn tính người, sẵn sàng gây mọi tội ác… Khủng bố cá nhân là phương pháp hành động của đàn chó săn Trốt-kýt”.
Đó là những lời Stalin chửi rủa nhóm Đệ Tứ Trotskist từ Mạc Tư Khoa năm 1937. Đến năm 1939, Hồ Chí Minh ở Hoa Nam cũng đã viết lại những lời chửi rủa như trên vào trong ba bức thư gởi về Đảng Cộng Sản ở Việt Nam. Hai nhà tranh đấu kiệt xuất cho Tự Do, Dân Chủ, và Dân Quyền là Bùi Tín và Nguyễn Minh Cần đã tham khảo ba bức thư đó trong Hồ Chí Minh Toàn Tập (tập 3, trang 97-100). Tác giả Nguyễn Minh Cần đã viết trong quyển Đảng Cộng Sản Việt Nam (trang 97) như sau:
“Nổi bật là những lời rất mạnh của Nguyễn Ái Quốc chống chủ nghĩa Trotsky và những người Trotskistes, ông buộc cho họ tội phản bội, gián điệp, tay sai đế quốc, hoàn toàn rập khuôn lời lẽ của cơ quan tuyên truyền của Stalin. Có người cho rằng ông ta nghĩ như thế thật với lòng cuồng tín của một đồ đệ của Stalin, với lối lu loa, vu khống, sỉ nhục, thóa mạ họ một cách rất “Stalin”. Đọc lại ba bức thư ông viết cho Đảng Cộng Sản Việt Nam hồi năm 1939, thấy đầy rẫy những lời chửi bới:
“Chúng là một lũ bất lương”
“Những con chó săn của chủ nghĩa phát xít Nhật và phát xít quốc tế”
“Đàn chó Trotskites”
“Những kẻ đầu trâu mặt ngựa”
“Những đứa không còn phẩm giá con người”
“Những tên sẵn sàng gây mọi tội ác”
“Kẻ thù của nền dân chủ và tiến bộ”
“Bọn phản bội và mật thám tồi tệ nhất”
Đọc lại những lời Hồ Chí Minh chửi bới những người Trotskist Việt Nam như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Phan Văn Chánh… chúng ta quá ngỡ ngàng trước trận phun nhả ngôn từ vô cùng điêu ngoa, bẩn thỉu và hèn hạ. Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu trong quyển Phan Văn Hùm, Thân Thế & Sự Nghiệp cũng có nhận xét tương tự (trang 354):
“Đối với một người vốn đã hấp thụ văn hóa Đông phương Khổng Mạnh như ông Hồ Chí Minh, ngôn từ quá thô được xử dụng trong ba văn kiện kể trên quả là một bất ngờ khó hiểu được, ngoại trừ phải được coi như là một ngôn ngữ dịch từ các bản văn của Stalin.”
Thật vậy, những người bị Hồ Chí Minh chửi như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch… là những người tranh đấu chống Pháp không tỳ vết, đã nêu tấm gương yêu nước trong sáng làu làu cho Dân Tộc và cho các thế hệ tương lai. Họ là những vị rất xứng đáng được Dân Tộc ngưỡng mộ, tôn vinh, và noi gương. Bởi thế cho nên câu “Sáng Đảng Mà Mù Tình Dân Tộc” áp dụng rất đúng với Con Rối Hồ Chí Minh (“Con Rối” chữ của Minh Võ và Dương Thu Hương). Hiển nhiên vì Sáng Đảng nên BÁC đã quá Mù Tình Dân Tộc. BÁC thật trọn vẹn là Con Vẹt Của Stalin. Đã cam tâm làm Con Vẹt Của Stalin, BÁC còn nhẫn tâm làm Cánh Tay Vươn Dài Của Stalin sát hại Dân Tộc! TẤT CẢ NHỮNG NGƯỜI BỊ BÁC CHỬI NĂM 1939, THÌ ĐẾN NĂM 1945 ĐỀU BỊ BÁC GIẾT SẠCH!
Sự Thật Về Vụ Án Moscow 1936 - 1938
Trong quyển Mặt Thật, tác giả Bùi Tín cũng khảo sát về những lời chửi bới của Hồ Chí Minh như tác giả Nguyễn Minh Cần. Nhưng Bùi Tín còn trích thêm Lời Khuyên của Hồ Chí Minh gởi về cho các đồng chí ở Việt Nam (trang 113):
“Tôi khuyên ai chưa đọc thì nên tìm đọc Bản Xử Án bọn Trốt kýt ở Liên Xô và làm cho bạn bè cùng đọc. Nó sẽ giúp cho thấy bộ mặt đáng ghê tởm của chủ nghĩa Trốt ky và bọn Trốt kýt”
Lời Khuyên tưởng rằng có thể dạy khôn, nhưng không ngờ Hồ Chí Minh đã xúi dại. Việc đời cứ lặp đi lặp lại y như lời người xưa diễn tả “Gậy ông đập lưng ông” và “Ngậm máu phun người, trước dơ miệng mình”. Bây giờ, đi tìm chân lý trong lịch sử, chúng ta mới biết Stalin đã phản bội cuộc cách mạng và Bản Án Moscow hiện nguyên hình là bức bình phong đầy man trá và tàn bạo do Stalin dàn dựng lên để sát hại những người cách mạng chân chính đối lập với ông. Cho nên Bản Xử Án Moscow đã vạch “bộ mặt vô cùng ghê tởm” không phải của Trotsky mà là của chính Stalin và Tập Đoàn của ông trong đó có Hồ Chí Minh.
Nhắc lại lúc Stalin lên cầm quyền thì nền dân chủ trong Đảng đã bị hủy bỏ, Stalin càng trở nên độc tài thì sự chống đối càng quyết liệt. Cánh Tả Đối Lập thành hình do hàng ngàn đảng viên cùng lên tiếng chống đối việc hủy bỏ nền dân chủ Liên Xô, việc cưỡng bách tập thể hóa, kế hoạch ưu tiên phát triển kỹ nghệ (Một dẫn chứng: dùng võ lực tàn bạo tận thu thóc lúa của nông dân để xuất cảng 18 triệu tạ thóc lấy ngoại tệ nhập cảng máy móc, gây nên nạn đói giết chết 6 triệu nông dân), cùng sự hưởng đặc quyền đặc lợi của các Quan Chức Đỏ… Giáo Sư Vadim Z. Rogovin, một sử gia chuyên về lịch sử nước Nga thời Liên Xô, có bài thuyết giảng tại Đại Học Melbourne ngày 18-5-1996 về đề tài Cơn Đại Khủng Bố Của Stalin: Nguyên Nhân Và Hậu Quả (Quyển Two Lectures, ấn quán Labour Press Books, Sydney). Giáo sư Rogovin có đề cập đến Cương Lĩnh Riutin (Riutin Platform), một văn bản 100 trang tương tự như Nhật Ký Rồng Rắn 88 trang của tướng Trần Độ. Riutin nguyên là đảng viên Bolshevik đã từng ủng hộ Stalin ở thập niên 20, cũng y như Cựu Trung Tướng Trần Độ đã từng ủng hộ Hồ Chí Minh. Sau cùng vì nhận xét chính sách của Stalin sai lầm trên nhiều mặt, Riutin tìm cách liên minh với cánh Tả Đối Lập, với những người Trotskyists. Nhóm Riutin phát hành Cương Lĩnh nêu rõ những khủng hoảng về kinh tế và chính trị đang xảy ra khắp nước và trên mọi khía cạnh. Stalin sợ phong trào chống đối lan rộng nên không cho phổ biến Cương Lĩnh trong Chính Trị Bộ và ra lịnh khai trừ Riutin, đồng thời phát động một cuộc tàn sát địch thủ chính trị khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại. Đó là cuộc Đại Khủng Bố, hay Đại Thanh Trừng.
Viết về Đại Khủng Bố hay Đại Thanh Trừng, giáo sư Rogovin tường thuật rằng đó là một biến cố độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người: “Hàng trăm ngàn người bị bắt giam vào ngục, bị tra tấn dã man, bị bắt phải thú nhận những tội mà họ không hề phạm, rồi bị thủ tiêu hoặc bị lưu đày trong những trại tập trung Gulag ở khắp Liên Bang Xô Viết.” Trong cùng thời gian đó, hàng ngàn người Trotskyist, vốn là đảng viên cao cấp tài năng đang bị giam cầm hoặc bị lưu đày, phải viết bản tự khai tự kiểm để được phục hồi địa vị. Giáo sư Rogovin thuật lại rằng Stalin cho triệu hồi về Moscow hàng tá và hàng tá những người đối kháng, định đưa ra xử trong Phiên Toà Đầu Tiên năm 1936. Stalin ra lịnh bảo họ viết Bản Tự Thú về những tội họ không hề làm, nhưng không người nào chịu viết, do đó họ bị thủ tiêu trong lần hỏi cung trước khi bị đem ra xử. Trong Phiên Tòa Thứ Nhất, hai bị cáo là Zinoviev và Kamenev bị kết tội âm mưu với ngoại bang để lật đổ chính phủ và bị xử tử vào tháng 8 năm 1936. Trong Phiên Tòa Thứ Hai năm 1937, Radek bị kết án 10 năm tù về tội phản động, nhưng đã chết trong tù năm 1939. Trong Phiên Tòa Thứ Ba ngày 13-3-1938, hai bị cáo Rykov và Bukharin bị kết tội làm gián điệp cho nước ngoài để lật đổ chánh quyền và bị xử tử ngày 14-3-1938.
Giáo sư Rogovin, căn cứ vào nguồn sử liệu xác đáng, đã viết rằng trong suốt thời Xô Viết ở Nga, có khoảng 4 triệu người bị kết án chống Chính Phủ, trong số đó bị xử bắn từ 700.000 đến 800.000 người. Để cảm nhận sự khiếp đảm trong thời Đại Khủng Bố, chỉ trong hai năm 1936 và 1938, Stalin đã đưa ra “pháp trường cát” để xử bắn một số tử tội 6 lần nhiều hơn so với trọn cả thời gian lịch sử Xô Viết. Hơn nữa, kể từ 1953 là năm Stalin từ trần, trong 40 năm sau đó gần như không có tội phạm chính trị nào bị xử bắn cả! Và cũng thật may mắn cho nước Nga, một cơn Khủng Bố Mới đang được Stalin chuẩn bị để phát động thì liền bị các người kế vị của ông dập tắt ngay sau khi ông chết!
Đến năm 1988 dưới thời Gorbachev, Tối Cao Pháp Viện Xô Viết cứu xét lại các Vụ Án 1936-1938 và huỷ bỏ tất cả các phán quyết. Các phán quyết được huỷ bỏ, các bị cáo kể như được trắng án, thì ra Stalin đã đạo diễn các phiên toà theo lối chuyên chính phi pháp chỉ để giết người hữu công vô tội. “Tôi khuyên ai chưa đọc thì nên tìm đọc Bản Xử Án bọn Trốt kýt ở Liên Xô và làm cho bạn bè cùng đọc. Nó sẽ giúp cho thấy bộ mặt đáng ghê tởm của chủ nghĩa Trốt ky và bọn Trốt kýt”, Lời Khuyên của Hồ Chí Minh như vậy tất nhiên đã vạch bộ mặt vô cùng ghê tởm của Tập Đoàn Stalin và của chính mình! Tưởng rằng dạy khôn, không ngờ Hồ Chí Minh đã xúi dại!
Lấy Tên Hồ Chí Minh Đặt Cho Sài Gòn
Sau khi chiếm trọn miền Nam 30-4-1975, Đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1976 đã làm y như Đàn Anh Liên Xô đã làm vào năm 1924 và 1925. Năm 1924 sau khi Lenin từ trần, Liên Bang Xô Viết đã thay tên Petrograd thành tên mới là Leningrad để tôn vinh Lenin. Qua năm sau là năm 1925, thừa thắng xông lên, Stalin “nấu chè xôi” sửa tên thành phố Volgograd thành Stalingrad để tự tôn vinh mình mà không kịp chờ cho đến khi qua đời! Thì ra những “Chủ Tịch Đảng Cộng Sản tự xưng là Kách Mệnh” mà cũng hành xử như các bậc vua chúa thời phong kiến và cũng muốn tên tuổi mình trường tồn với thời gian theo lối “Thánh Thượng Vạn Vạn Tuế” ngày xưa.
Đàn Anh Liên Xô tôn vinh Lenin và Stalin thì Đàn Em Cộng Sản Việt Nam không dại gì mà không tôn vinh Hồ Chí Minh! Con Vẹt Của Stalin mà lại! Cho nên đến năm 1976, Cộng Sản Việt Nam cũng “nấu chè xôi” hủy bỏ tên Sài Gòn, tên đã có lịch sử 300 năm, để đặt cho tên mới là Thành Phố Hồ Chí Minh. Nhưng Thiên Bất Dung Gian, tên tuổi của những tên đồ tể Cộng Sản Liên Xô cùng chế độ thối tha của chúng lập ra nào có trường tồn được đâu! Đến năm 1961, Stalingrad trở lại thành tên cũ là Volgograd và đến năm 1991, sau khi khối Cộng Sản Đông Âu và Liên Bang Xô Viết sụp đổ, thì Leningrad, thành phố mang tên Lenin trở lại thành Petrograd như xưa! Đây Bảng Tổng Kết về tuổi thọ:
Liên Bang Xô Viết: 1917 – 1991 = 74 năm
Thành phố Leningrad: 1924 – 1991 = 67 năm
Thành phố Stalingrad: 1925 – 1961 = 36 năm
Chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa mà người Cộng Sản xưng tụng là dân chủ hơn chế độ tư bản gấp triệu lần, tại sao mà yểu mệnh như vậy!? Làm sao mà dám sánh với tuổi thọ của những “Ông Già Ba Tri” ở tỉnh Bến Tre của Việt Nam được tiếng là trường thọ! Lại càng không thể sánh với chế độ tư bản tôn trọng dân chủ và nhân quyền của các nước Anh, Pháp, Mỹ… Cựu đại tá Trần Văn Kha, cựu sinh viên khóa 5 Võ Bị Đà Lạt (khóa Hoàng Diệu), bàn về sự sụp đổ của Xã Hội Chủ Nghĩa như sau: “Liên Bang Xô Viết và các nước Đông Âu tan rã không phải vì dân nổi loạn, mà vì cấp lãnh đạo cộng sản kịp nhận ra rằng ý thức hệ cộng sản sẽ đưa quốc gia của họ đến chỗ diệt vong, nên họ đã đào lỗ chôn cộng sản.” Đại tá Kha nhận xét như trên với báo Giao Điểm năm 1993 và lặp lại Lời Tuyên Bố đáng tự hào của Gorbachev về cộng sản và tư bản. Lời Tuyên Bố lịch sử đó như sau:
“Ba mươi năm sau khi Nikita Khrushchev đoán rằng cộng sản sẽ chôn vùi tư bản, thì tôi, Gorbachev nói rằng cộng sản đang tự chôn chính mình.”
Rõ ràng chưa! Thiên Bất Dung Gian! Những thứ mang nhản hiệu Cộng Sản mất nhân tính, thất nhân tâm, phản tiến bộ, phản cách mạng, phản nhân loại có bền được đâu! Chúng ta chờ xem Thành Phố Hồ Chí Minh mang tên xác chết đến năm nào mới chết để cho tên Sài Gòn được sống mãi muôn đời!
Chuyện Stalin Chết Mấy Lần?
Nếu chúng ta trở lại thập niên 20, 30, hoặc 40 và liệt kê những lời chúc tụng và ca ngợi Stalin, chúng ta mới hiểu được Sách Lược Thần Thánh Hóa Lãnh Tụ của Cộng Sản! Tác giả Trần Văn Kha đã lược thuật bài báo nhan đề Thượng Đế Đã Chết, Stalin Muôn Năm của 2 tác giả Branko Lazitch và Christian Jelen đăng ở L’Express ngày 4-3-1983 trong tác phẩm Tranh Đấu do tác giả tự xuất bản năm 1987. Những lời ca tụng Stalin được tác giả Trần Văn Kha liệt kê trong quyển Tranh Đấu (trang 131) như sau:
Vinh dự muôn năm cho Stalin vĩ đại
Nhà dìu dắt bất diệt của nhân loại
Ánh sáng của chúng ta
Nhà xây dựng vĩ đại chủ nghĩa Cộng Sản
Người kế tục tài ba của Marx, Engels và Lenin
Đại vĩ nhân của mọi thời đại
Nhà tư tưởng vĩ đại, nhà hành động vĩ đại
Vị thầy không ai có thể so sánh được của chủ nghĩa khoa học Mác xít
Bộ óc mạnh mẽ nhất của thời đại
Chúa tể của các dòng sông
Nguồn gốc ánh sáng và năng lực của chúng ta
Người bạn tốt nhất của Do Thái
Sự khôn ngoan, vinh dự, và lương tâm của thời đại
Người lèo lái
Một khối óc thông minh tuyệt vời, giải đáp mọi thắc mắc của thời đại
Một khối óc thiên tài, gom góp được tất cả mọi kinh nghiệm tranh đấu của vô sản từ 100 năm nay
Mặt trời của Sự Thật
Cầu vồng của nhân loại Cộng Sản
Đó là những lời ca ngợi Stalin khi ông còn sống, tác giả Trần Văn Kha đoan chắc rằng còn thiếu sót rất nhiều. Đến khi Stalin chết ngày 5-3-1953 thì sự ca tụng ông lên đến tuyệt đỉnh vì ông được thần thánh hóa đến mức ngang hàng với Thượng Đế. Cho nên các tín đồ không thể tin được rằng Thượng Đế của họ có thể chết được! Từ khắp nơi trong thế giới Cộng Sản vang lên những bài thơ cùng điếu văn thương khóc Thượng Đế Stalin của họ! Tờ Nhân Loại (L’Humanité) phát hành ở Mạc Tư Khoa ngày 9-3-1953:
“Một con sông mới trong sạch, làm bằng nước mắt của hàng trăm triệu người khóc, trên khắp vũ trụ, trong những ngày đau đớn này.”
Ở Budapest, thủ đô Hung Gia Lợi, phụ họa theo:
“Nước mắt tràn ngập trên mặt toàn thể dân chúng Hung. Không một con đê nào có thể ngăn chận những giọt nước mắt đau đớn ấy.”
Lẽ tất nhiên, chế độ Dân Chủ Cộng Hòa của Hồ Chí Minh cũng không bỏ lỡ cơ hội thương khóc Thượng Đế Stalin để lấy điểm. Hồ Chí Minh ra lịnh cho cả nước phải để tang và thi sĩ Tố Hữu đóng góp bài thơ Đời Đời Nhớ Ông có những câu như sau:
………………
Sta-lin! Sta-lin!
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Sta-lin
……………………………..
Ông Sta-lin ơi! Ông Sta-lin ơi!
Hỡi ôi Ông mất! Đất trời có không?
Thương cha thương mẹ thương chồng
Thương mình thương một thương Ông thương mười
Về bài thơ Đời Đời Nhớ Ông của Tố Hữu, trong quyển Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc, nhà sưu tầm Mạc Định viết: “Lời thơ của ông rất hay, nhưng vì ông chuyên dùng ý thơ để ca tụng lãnh đạo nên cũng như những loại thơ ca tụng khác, độc giả cảm thấy tinh thần thấp hèn của người làm thơ”. Người làm thơ tuy có “tinh thần thấp hèn” thật, nhưng sau khi sáng tác bài thơ vào tháng 5-1953 thì qua năm 1954, ông không còn là Ủy viên dự khuyết nữa mà đã trở thành Ủy Viên Trung Ương Thực Thụ! Có câu chuyện được kể sau ngày 30-4-1975 do một trại viên học tập cải tạo. Anh thuật rằng ở trong tù anh em chuyền tay nhau đọc thi tập của Tố Hữu. Nhưng ấn bản đó không còn có bài thơ ca ngợi lãnh tụ Stalin và bài thơ nâng bi bác Hồ nâng bi bác Mao một cách trâng tráo mà Đảng không còn muốn phổ biến nữa. Không có thì anh em làm cho có: anh em chép tay thêm vào và dấu ở cuối cuốn sách. Hóa ra đó là những bài thơ anh em rất thích và chuyền tay nhau để đọc. Đảng Cộng Sản Việt Nam không còn muốn ca ngợi lãnh tụ Stalin nữa, thì bài thơ Đời Đời Nhớ Ông của Tố Hữu kể như bị khai tử! Đảng bỏ bài thơ đó thật đúng bởi vì bấy giờ người dân miền Nam gọi nó là “Bài Thơ Bợ Đít Xít Ta Lin”. Miền Bắc nói “nâng bi”, miền Nam nói “bợ đít”, cả hai đều là tiếng Việt.
Theo tác giả Trần Văn Kha, nhà Đại Độc Tài Liên Xô Stalin đã chết 2 lần (trang 138 sđd):
1-Stalin con người chết năm 1953
2-Stalin Thượng Đế chết năm 1956
Để phụ họa theo, chúng ta có thể kể thêm Stalin chết lần thứ 3 và lần thứ 4:
3-Stalingrad, thành phố mang tên Stalin chết năm 1961
4-Bài thơ “Khóc Stalin” của Tố Hữu chết sau năm 1975!
Đến bây giờ là năm 2007, nếu Đảng Cộng Sản Việt Nam hiểu được “Dân Vi Quý”, hiểu được “Ý Dân là Ý Trời”, hiểu được “Thuận Thiên Giả Tồn, Nghịch Thiên Giả Vong”, cũng như Đảng đã hiểu và tự khai tử bài thơ khóc Stalin Đời Đời Nhớ Ông của Tố Hữu, thì Đảng nên hiểu và tự khai tử tên thành phố Hồ Chí Minh để trả tên Sài Gòn lại cho Dân Tộc. Cái gì của Dân Tộc thì trả lại cho Dân Tộc, Đảng có mất mát chi đâu! Đảng chiếm đoạt làm chi cho bị mang tiếng! Đảng mà sáng suốt như vậy thì là thượng sách.
Bằng không được như vậy, khi Liên Xô ca ngợi Stalin thì Việt Cộng ca ngợi Hồ Chí Minh, khi Liên Xô hạ bệ Stalin thì Việt Cộng hạ bệ Hồ Chí Minh, cứ theo thói quen làm con vẹt bắt chước y như Liên Xô, không cần biết “Thuận Thiên Giả Tồn, Nghịch Thiên Giả Vong” gì cả, chỉ cần biết bắt chước như con vẹt thôi thì cũng có thể gọi là trung sách được.
Đến bây giờ là Mùa Bịt Miệng 2007, những “Kẻ Sáng Đảng Mà Mù Tình Dân Tộc” đã bị lỡ Chuyến Tàu Lịch Sử rồi, nên không còn có thể hành xử theo thượng sách hay trung sách gì nữa cả. Bây giờ cũng không còn hạ sách nữa mà chỉ có thất sách mà thôi! Khi Linh mục Nguyễn Hữu Lễ phất cao ngọn cờ chính nghĩa PHONG TRÀO QUỐC DÂN ĐÒI TRẢ TÊN SÀI GÒN phát động khắp cả năm châu làm phấn khởi lòng người dân Việt khắp nơi nơi, quốc nội cũng như quốc ngoại, thử xem Đảng Cộng Sản Việt Nam hay đúng hơn Bộ Chính Trị với hơn 100 Ủy viên tìm phương cách nào để ứng xử với Dân Tộc 80 triệu người cho thuận tình nghĩa và hợp đạo lý.
Chuyện Ba Người Tù
Đây là câu chuyện bàn về ba chế độ lao tù khác nhau để cho chúng ta biết rõ thêm về Xã Hội Chủ Nghĩa và Chế Độ Lao Tù do Hồ Chí Minh xây dựng. Người tù thứ nhất là Hồ Chí Minh bị bắt ở Hương Cảng và ở Liễu Châu. Người tù thứ hai là Tạ Thu Thâu bị Pháp bắt giam ở Khám Lớn và Côn Đảo. Nhưng thê thảm nghiệt ngã nhất là người tù thứ ba, là nhà sư Tuệ Minh bị chế độ Hồ Chí Minh bắt giam và hành hạ đến chết trong tù.
Người Tù Thứ Nhất: Hồ Chí Minh
Trong cuộc đời làm “Kách Mệnh”, Hồ Chí Minh bị bắt ở tù hai lần. Lần đầu, Hồ Chí Minh bị chính quyền Anh bắt ở Hương Cảng ngày 5-6-1931, và đến đầu năm 1932, sau 6 tháng bị giam thì Bác được phóng thích. Hãy xem lại lịch sử đến thời điểm đó Bác đã hoàn thành công tác nào cho Đệ Tam Quốc Tế:
1- Thành lập được Đảng Cộng Sản Xiêm và Đảng Cộng Sản Mã Lai,
2- Hợp nhất ba chi phái cộng sản ở Việt Nam thành Đảng Cộng Sản Đông Dương,
3- Thực hiện sách lược Đấu Tranh Giai Cấp với phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh để thành lập những xô viết đầu tiên trên đất Việt.
Ngần ấy công lao hẳn Hồ Chí Minh đã lọt được vào biệt nhãn của Stalin nên Đệ Tam Quốc Tế mới huy động những đảng ngoại vi hết lòng lo cho giải cứu Bác để hòng xử dụng về sau.
Bác là người tù “có số đẻ bọc điều”. Bác được Đệ Tam Quốc Tế chỉ thị cho Liên Minh Quốc Tế Chống Chủ Nghĩa Đế Quốc sách động công nhân tận bên Anh quốc làm áp lực với chính phủ Anh để phóng thích Bác. Đệ Tam Quốc Tế lại còn chỉ thị cho Hội Cứu Tế Quốc Tế Đỏ mời luật sư người Anh Frank Loseby biện hộ cho Bác. Bác chỉ ở tù 6 tháng. Trong lần vào tù ra khám ở Hương Cảng nầy, điều gì cần dấu thì Bác dấu, việc nào cần khoe thì Bác khoe. Hãy xem Bác khoe qua miệng lưỡi của Trần Dân Tiên:
“Mỗi ngày hai lần, chúng cho ông ăn cơm gạo xấy và mắm thối. Mỗi tuần hai lần, chúng cho ông ăn thịt bò, cơm trắng. Thật là một bữa tiệc sang.”
“Những buổi bị đưa đi hỏi cung là những lúc nghỉ ngơi khoái nhất ở trong tù. Một là được ra khỏi xà lim được một lúc, cái xà lim nghẹt thở, tối om và hôi hám. Hai là vì bọn trùm mật thám thường hỏi cung ông, mời ông hút thuốc lá Anh.”
Khi Bác bị bịnh, chúng đưa Bác vào bịnh viện ngay:
“Ông có một cái giường tốt và được ăn cơm tây. Ông nói cả đời chưa bao giờ Nguyễn được ăn uống sung sướng như thế này.”
Người tù Hồ Chí Minh thật tốt số. Ngồi tù ở Hương Cảng bên trời Đông, mà các công nhân Anh Quốc tận Thái Tây bên Luân Đôn biểu tình làm áp lực chính phủ Anh để ủng hộ ông. Đó là điều Hồ Chí Minh cần dấu. Nếu ông không phải là Quốc Tế Ủy được Stalin đào luyện để xử dụng về sau, thì làm sao ông nhận được sự ưu ái như vậy. Thảo nào ông đã bỏ Dân Tộc để cúc cung tận tụy phục vụ Quốc Tế Cộng Sản và Stalin.
Lần ở tù thứ 2, từ hang Pắc Bó đi sang Tàu vào tháng 8-1942, Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng Tây ngày 29-8-1942 và bị giải về giam trong hang đá Độc Đăng Sơn ở Liễu Châu. Ông bị bắt vì ông đã mang trong mình ba thứ Chứng Minh Thư của các cơ quan thông tin tuyên truyền của Trung Cộng đã bị Chính quyền Dân quốc của Tưởng Giới Thạch đóng cửa. Hơn nữa, người dẫn đường ông trên đất Trung Hoa lại là một cán bộ Trung Cộng nằm vùng không có Chứng minh thư. Ông bị tình nghi là cộng sản và gián điệp của Nhật. Lần nầy, Hồ Chí Minh cũng gặp may mắn nhờ sự phát giác của một đảng viên VNQDĐ là Lý Thái Thư (trích bài Một Thoáng Mong Manh Còn Nhớ Mãi để tưởng niệm 50 năm ngày mất của nhà văn Khái Hưng 1947-1997, tác giả Lý Thái Thư, bài đăng trong Đặc san Việt Quốc, VNQDĐ Xứ bộ Úc Châu, Khu bộ Victoria xuất bản). Khi gặp Lý Thái Thư vào trong hang động Độc Đăng Sơn thăm mình, Hồ Chí Minh lúc đó mang tên Lý Thụy mừng rỡ, tha thiết cầu khẩn:
“Vì tình đồng hương, đồng bào ruột thịt, năn nỉ với Tổng Hội can thiệp dùm, vì trong chiến tranh Hoa-Nhật, chính phủ Trung Quốc có quyền nghi ngờ hết thảy và gán cho mọi người là CS hoặc làm gián điệp… Vậy quý ông trình bày dùm cho. Ơn ấy chúng tôi chẳng bao giờ dám quên…”
Lý Thái Thư về báo cáo với Chủ tịch Trương Bội Công và cụ Nguyễn Hải Thần là những vị lãnh đạo Tổng Hội VNCMĐMH, và nhờ sự bảo lãnh của hai vị này, Hồ Chí Minh tức Lý Thụy được thả ngày 10-9-1943. Tính ra Hồ Chí Minh bị giam giữ 12 tháng 12 ngày. Trong lần ở tù này, ông được quản lý theo chế độ nghi can chính trị, có thể đọc sách báo, ăn uống đầy đủ, và không bị lao dịch. Ông hẳn là một người tù tốt số, bị bắt ở tù hai lần mà lần nào cũng gặp quới nhân trợ giúp và được hưởng chế độ lao tù thật tốt đẹp.
Người Tù Thứ Hai: Tạ Thu Thâu
Nhà cách mạng Tạ Thu Thâu là người tù thứ hai trong câu chuyện. Ông không tốt số như Bác vì ông là tù nhân của Thực Dân Pháp. Một cách sơ lược về cuộc đời tù tội của Tạ Thu Thâu: ông bị Pháp bắt tất cả 7 lần, 30 lần ra tòa trong đó có nhiều lần ông tự biện hộ bằng tiếng Pháp thật điêu luyện, 3 lần tuyệt thực để phản đối, có lần tuyệt thực dài 12 ngày (vụ tuyệt thực của ông thánh Gandhi ở Ấn Độ chỉ dài 8 ngày), có lần bị phạt 500 quan tiền vạ. Lần ở tù sau cùng, ông bị tiêm một mũi thuốc gây cho ông mê man bất tỉnh trong hai ngày và do đó cánh tay phải của ông bị hoàn toàn tê liệt cho đến ngày chết. Tác giả Phương Lan viết về mảnh hình hài còn sót lại của Tạ Thu Thâu sau một đời làm cách mạng:
“Nhiều lần vào tù ra khám như bao nhiêu người dân yêu nước. Rồi lần ở tù chót, bị chích tê liệt cả thân người, được Pháp thả về nhà, sống với thân hình tàn phế, tay chân rút co quắp lại, sống một cách khổ sở, người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm, chỉ nằm chờ ngày chết, không còn năng lực gì nữa.”
Có một nhân chứng là Nguyễn VănThiệt tường thuật những giây phút cuối cùng của Tạ Thu Thâu. Lúc đó anh Thiệt đi xe lửa tới Quảng Ngãi thì phải ngừng lại nghỉ đêm. Trong lúc ngồi ở quán nước, hỏi thăm bà bán quán về người bạn tên Lê Xán là một người yêu nước theo cụ Phan Bội Châu, bị Pháp bắt đày đi Lao Bảo. Không ngờ khi Pháp thả ra, thì Lê Xán bị Việt Minh bắt lại và bị xử tử. Anh Thiệt vì muốn biết tin bạn nên cũng bị Việt Minh bắt và bị buộc tội “đến Quảng Ngãi để giải vây cho Lê Xán.” Nhờ thế, anh là chứng nhân và viết được bài Tôi Thấy Tạ Thu Thâu Chết (đăng trong quyển Người Việt Ở Pháp 1940-1954 do tác giả Đặng Văn Long sưu tầm, trang 477). Theo lời anh Thiệt thì Ủy ban tỉnh Quảng Ngãi cũng không biết Tạ Thu Thâu bị tội gì, chỉ nhận được điện tín của Trần Văn Giàu đánh ra cho các tỉnh ra lệnh gặp Tạ Thu Thâu thì bắt. Khi Ủy ban tỉnh báo cho Trần Văn Giàu đã bắt được Tạ Thu Thâu thì Giàu ra lịnh hãy xử tử. Khi đem ra sát trường thì Tạ Thu Thâu trần tình cùng mấy người lính. Ông nói hay và đúng quá nên không ai nở bắn, có người còn cảm động rơi lệ nữa. Lại đánh dây thép về Sài Gòn hỏi xem có giết lầm không. Và đã hai lần như thế, Trần Văn Giàu đánh dây thép ra bảo giết. Theo lời anh Thiệt, đến lúc đó họ nhận được lệnh riêng của Cụ Hồ ở Hà Nội điện vô khiển trách Ủy ban bất tuân thượng lệnh. Nhưng đội hành quyết vẫn động mối từ tâm không nở bắn. Anh Thiệt thuật lại rằng anh mừng đến rơi lệ khi họ dẫn Tạ Thu Thâu về, nhưng liền sau đó: “một người trai trẻ mặc áo nâu quần sọt trắng ra vẻ học trò, tuổi lối mười bảy, mười tám, hung hăng nhảy ra, rút cây dao găm dắt ở lưng đâm vào vai Tạ Thu Thâu, miệng vừa hét “Đồ Việt gian phản động”, rồi đạp Tạ Thu Thâu vào bụng cho ngã quay ra đất, đoạn đấm đá túi bụi.” Mắt anh Thiệt đẫm lệ nên không thấy được tường tận nhưng còn nhớ hình ảnh của một đám đông người bao quanh một bóng trắng đang quằn quại giữa vũng máu và nghe giọng the thé rất trong của người thiếu niên: “Các đồng chí hèn quá, một thằng Việt gian cũng không dám giết.”
Tác giả Phương Lan Bùi Thế Mỹ cũng tường thuật tương tự như thế trong sách của bà (trang 440): “Thâu từ Huế vào Quảng Ngãi thì bị bắt tại Sông Vệ, thuộc quận Tư Nghĩa. Khi Thâu vừa để chân đến đấy, là cán bộ địa phương hay liền Thâu là thành phần Đệ Tứ quốc tế, họ báo động với nhau, và liền bủa vây bắt ngay Thâu, giải ra xã Ba Lá, ở phía bắc Sông Vệ, giao cho cấp lãnh đạo tỉnh là Tư Ty. Tư Ty ra lịnh chém.”
“Như lời các chứng nhân kể lại, Thâu binh vực mình, Thâu thuyết phục rằng mình vô tội, mình có công hơn là có tội. Không ai chịu ra tay giết Thâu cả. Có người mắt ven tròng rướm lệ là khác. Hai lần như thế, đi không về không. Tới lần thứ ba, cũng thế, đội hành quyết sững sờ đứng yên, Tư Ty phải tự tay dùng súng lục giết Thâu, một cách hèn nhát là đứng phía sau lưng Thâu bắn tới…”
Nhắc lại giai đoạn lúc Thực Dân Pháp mới chiếm Nam Kỳ, có biết bao nhà ái quốc tự động nổi dậy chống Pháp, trong số đó có Nguyễn Trung Trực. Ông chỉ huy nghĩa binh đánh quân Pháp nhiều nơi, nổi bật nhất là chiến công đốt phá chiến thuyền Espérance do trung uý Parfait của Pháp chỉ huy vào ngày 11-2-1861 tại rạch Vàm Cỏ làng Nhật Tảo. Nhưng rồi thế cùng lực tận, ông bị bắt ở Kiên Giang, ông nhất quyết không chịu hàng nên bị tử hình ngày 27-10-1868. Người dân thương nhớ và ghi công ông trong câu đối được truyền tụng như sau:
Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa
Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần
Lịch sử ghi lại rằng khi đem ông Nguyễn Trung Trực ra “sát trường”, không một người lính Việt Nam nào chịu ra tay chém ông. Pháp phải ra dùng một đao phủ người Miên mới hành quyết được. Lịch sử là những biến cố thường được lặp đi lặp lại. Sau đó 77 năm, vào “Mùa Thu Kách Mệnh” của Hồ Chí Minh năm 1945, nhà cách mạng yêu nước Tạ Thu Thâu cũng gặp hoàn cảnh tương tự. Ba lần mang Tạ Thu Thâu ra “sát trường”, cả ba lần đội hành quyết không đành lòng ra tay giết, mà có người còn khóc vì thương ông nữa. Sau cùng, tên Tư Ty, một cán bộ lãnh đạo tỉnh Quảng Ngãi mới rút súng bắn ông từ sau lưng. (Xin mở ngoặc, trong đoạn văn nầy người viết dùng chữ sát trường mà không dùng chữ pháp trường, bởi lẽ kẻ hành quyết chỉ có mục đích sát hại chứ không xử theo pháp luật nào cả).
Trên sân khấu lịch sử, tấn tuồng sát hại nhà ái quốc Nguyễn Trung Trực do Thực Dân Pháp diễn xuất năm 1868, thì vào “Mùa Thu Kách Mệnh” năm 1945, đạo diễn Hồ Chí Minh cùng với sự cộng tác của Trần Văn Giàu cũng dàn dựng một vở tuồng y hệch như thế để giết nhà cách mạng yêu nước Tạ Thu Thâu. Trong vở tuồng mới, cũng có những đao phủ xót thương người trung nghĩa nên không chịu ra tay, cũng có tên Việt Cộng Tư Ty rất xuất sắc trong vai đao phủ người Miên ác độc, còn phản tặc Hồ Chí Minh và Trần Văn Giàu đã đóng trọn vẹn lại vai Thực Dân Pháp ngày xưa! Đến đây, xin một phút mặc niệm cho nhà Cách Mạng Tạ Thu Thâu bằng đôi dòng hồi tưởng của học giả Nguyễn Hiến Lê trong quyển Hồi Ký của ông. Vào mùa Thu năm 1945, học giả Nguyễn Hiến Lê trên đường tản cư từ Sài Gòn về Long Xuyên, đã nghe tin Phan Văn Hùm bị giết, nên trong Hồi Ký Tập 1 ông viết (trang 318):
“Cũng ngày đó chúng tôi lại được tin Tạ Thu Thâu bị giết ở Quảng Nam trên đường từ Huế về Sài Gòn. Tôi xúc động mạnh, vì tôi rất quý ông ta. Ông gốc ở Long Xuyên, du học Pháp về, sống rất giản dị, bình dân, khắp thành phố không ai không vừa trọng vừa yêu, nhất là giới thợ thuyền. Căn nhà của ông ở gần Cầu máy, một khu lao động, tuy bằng gạch, nhưng nhỏ, hẹp, xấu xí”.
Xin nhắc lại trong vở tuồng sát hại nhà cách mạng Tạ Thu Thâu, Hồ Chí Minh và Trần Văn Giàu thủ diễn vai Thực Dân Pháp rất xuất sắc. Tạ Thu Thâu hiển nhiên là nhà cách mạng yêu nước chống Pháp, nhưng ông lại bị Hồ Chí Minh và Trần Văn Giàu chống và giết hại. Tình trạng “dùi đánh đục, đục đánh săng” đó được tác giả Dennis J. Duncanson trong quyển Government And Revolution In Vietnam diễn tả bằng nhóm từ “almost anti-anticolonial”. Theo văn phong của tác giả Duncanson thì Hồ Chí Minh đã lãnh đạo Đảng Cộng Sản để chống những người yêu nước chống Thực Dân Pháp. Dưới bàn tay ác độc của Hồ Chí Minh, những người con thân yêu của Đất Nước như Tạ Thu Thâu và biết bao nhà ái quốc khác nữa bị sát hại như vậy. Suy ra, không những Hồ Chí Minh đã làm Con Vẹt Của Stalin, mà ông còn làm lợi cho Thực dân Pháp nữa.
Người Tù Thứ Ba: Nhà Sư Tuệ Minh
Người tù thứ ba là sư Tuệ Minh, người tù của Việt Minh Cộng Sản, một người tù vô cùng bất hạnh như số phận Dân Tộc Việt Nam dưới chế độ Hồ Chí Minh. Xin nhắc lại Việt sử đời Tiền Lê, vua Lê Đại Hành truyền ngôi cho con thứ ba là Thái Tử Lê Long Việt. Long Việt lên ngôi được ba ngày thì bị em là Long Đĩnh sát hại. Giết anh xong, Lê Long Đĩnh lên làm vua và trở thành vì vua tàn ác nhất trong lịch sử. Ông trị vì chỉ có 4 năm (1005-1009) thọ 24 tuổi. Xin trích Việt Nam Sử Lược của tác giả Trần Trọng Kim:
“Long Đĩnh là người bạo ngược, tính hay chém giết, ác bằng Kiệt Trụ ngày xưa. Khi đã giết anh rồi, lên làm vua thường cứ lấy sự giết người làm trò chơi: có khi những tù phạm phải hình, thì bắt lấy rơm tẩm dầu quấn vào người rồi đốt sống; có khi bắt tù trèo lên cây rồi ở dưới sai người chặt gốc cho cây đổ; có khi bỏ người vào sọt rồi đem thả xuống sông. Làm những điều ác như thế thì lấy làm thích chí. Một hôm lấy mía để lên đầu nhà sư mà róc vỏ rồi thỉnh thoảng giả tảng nhỡ tay bổ dao vào đầu sư chảy máu ra, trông thấy thế lấy làm vui cười.”
Một ngàn năm trôi qua nhanh. Nước ta trải qua nhiều triều đại: Lý, Trần, Lê, Hồ, Hậu Lê với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng Trong, đến nhà Nguyễn Tây Sơn ngắn ngủi và sau cùng là nhà Nguyễn Phúc của vua Gia Long. Biết bao vị minh quân tài ba đức độ, võ công hiển hách thay nhau trị vì để bảo vệ biên cương, mở mang bờ cõi, chỉnh đốn việc cai trị, phát triển văn học…
Đến đời nhà Lý, vua Lý Thái Tổ dời đô về thành Thăng Long để được rộng rãi mà phát triển. Vua Lý Thái Tông ra lịnh cấm mua hoàng nam làm nô lệ (hoàng nam là thanh niên từ 18 tuổi trở lên). Vua Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu để thờ đức Khổng Tử và các bậc tiên hiền. Vua Lý Nhân Tông mở khoa thi Tam Trường và thiết lập Quốc Tử Giám và bổ những người văn học vào dạy.
Đời nhà Trần võ công thật là hiển hách. Vua Trần Thái Tông mở khoa thi Thái Học Sinh (như Tiến Sĩ) và khoa thi Tam Giáo (Nho, Thích, Lão) và có công phá tan được cuộc xâm lăng lần thứ nhất của quân Mông Cổ. Đến đời vua Trần Nhân Tông, quân Mông Cổ lại hai lần đem quân sang đánh nước ta, nhưng đều bị bại dưới tay đức Trần Hưng Đạo.
Đời nhà Lê, vua Lê Thái Tổ định phép Quân Điền để lấy công điền công thổ mà chia cho mọi người từ quan đại thần cho đến những người già yếu cô quả, ai cũng có một phần ruộng khiến cho sự giàu nghèo trong nước khỏi chênh lệch lắm. Vua Lê Thái Tông cho mở khoa thi Tiến Sĩ và cho khắc tên những người thi đỗ vào bia đá. Khởi đầu từ đó, các Tiến Sĩ được khắc tên vào bia ở Văn Miếu. Vua Lê Thánh Tông cho lập nhà Tế Sinh để nuôi dưỡng những người đau yếu. Về việc sửa sang phong tục, nhà vua đặt ra 24 Điều Lễ Nghĩa dạy dân để chấn hưng đạo đức. Về việc canh nông, nhà vua đặt quan để trông coi việc cày cấy, tìm những đất bỏ hoang và đốc dân phu khai khẩn. Ngài lập ra cả thảy 42 Sở Đồn Điền, khiến cho dân thoát khỏi cảnh đói khổ. Nhà vua lại sai quan nghiên cứu luật pháp đời Chu, đời Đường bên Tàu và sửa chữa lại cho phù hợp với xã hội của ta làm thành bộ Lê Triều Hình Luật, tức là bộ luật đời Hồng Đức. Đây là bộ luật được các luật gia theo Tây Học ngày nay đề cao là rất cấp tiến và dân chủ: một điểm son trong Lịch Sử Tư Pháp Việt Nam.
Dưới đời Hậu Lê, ở Đàng Ngoài, chúa Trịnh Giang cho khắc bản in, in các sách phát ra mọi nơi và cấm không cho mua sách in bên Tàu nữa. Chúa Trịnh Cương cho hũy bỏ điều luật chặt các ngón tay trỏ hoặc bàn tay để đổi thành tội Đồ, tức là tội lưu đày ở các châu xa mà các tội nhân được giữ vẹn cơ thể. Chúa Trịnh Cương lại cho mở Võ Trường để dạy võ, mùa xuân mùa thu thì dạy võ nghệ, mùa đông mùa hạ thì học võ kinh. Chúa Trịnh Doanh cho lập Võ Miếu để thờ Tôn Võ Tử, Quản Tử, đức Hưng Đạo Đại Vương… , cứ Xuân Thu hai kỳ tế lễ. Đến đời nầy, đất nước ta có cả Văn Miếu lẫn Võ Miếu.
Trong khi các chúa Trịnh giữ vững biên cương ở phía Bắc, thì các chúa Nguyễn ở Đàng Trong lo mở mang bờ cõi về phương Nam, công nghiệp thật là quan trọng. Các vì chúa đã vô cùng khôn khéo trong việc chiêu mộ những người nghèo khổ ở trong nước đưa đi khai khẩn những vùng đất phì nhiêu bỏ hoang, chính sách thu phục và phong chức cho các cận thần của Chiêm Thành, và nhất là sự tiếp nhận ưu ái các thuyền nhân trung thành của nhà Minh trốn chạy sự thống trị của nhà Mãn Thanh và cho phép họ định cư ở vùng đất vừa chiếm được. Từ dinh Ái Tử ở Thuận Hóa là mảnh đất đầu tiên mà Nguyễn Hoàng tức chúa Tiên vào trấn nhậm (năm 1558), đến chín đời sau là đời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (năm 1744), thì lãnh thổ Đàng Trong gồm đến 12 dinh, trải dài đến tận Hà Tiên và Cà Mau bây giờ.
Đời nhà Nguyễn Tây Sơn tuy ngắn ngủi (1788-1802) nhưng võ công thật là hiển hách. Công cuộc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung Nguyễn Huệ, một chiến công vô cùng oanh liệt trong Việt sử được sánh ngang hàng với chiến công của Đức Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn hai lần đánh thắng quân Mông Cổ và cuộc Lam Sơn Khởi Nghĩa trong mười năm đánh đuổi giặc nhà Minh của Bình Định Vương Lê Lợi. Tấm lòng Cầu Hiền của vua Quang Trung khiến nhà vua thân đến núi La Sơn nhiều bận để thỉnh cầu La Sơn Phu tử là vị ẩn sĩ Nguyễn Thiếp ra giúp nước thật là một tấm gương sáng đáng cho các lãnh tụ đời nay noi theo.
Vua Gia Long triều đại Nguyễn Phúc có công thống nhất Đàng Trong và Đàng Ngoài, một cuộc Thống Nhất thật đẹp. Nhà vua xuống chỉ tha dân một vụ thuế, phong tước cho con cháu nhà Lê, nhà Trịnh, cấp cho ruộng đất và trừ giao dịch cho dòng dõi hai họ ấy để giữ việc thờ cúng tổ tiên. Ngài chỉnh đốn việc cai trị, sửa sang phong tục, nghiêm dụ quan lại không được sách nhiễu dân. Ở ngoài thì ngài lo giao hiếu với nước Tàu, nước Xiêm, nước Chân Lạp, khiến cho đất nước lúc bấy giờ trong ngoài đều được yên trị. Từ xưa đến nay, chưa bao giờ từng thấy một nước Việt Nam “cường đại” như thế (“cường đại” chữ của sử gia Trần Trọng Kim).
Đọc lại lịch sử một ngàn năm tự chủ, qua nhiều triều đại, biết bao nhiêu nét đan thanh rực rỡ, biết bao nhiêu vị minh quân đức độ cùng bầy tôi lương đống, trong nề nếp văn hóa vàng son, thật xứng đáng làm mẫu mực cho Dân Tộc noi gương và tự hào. Tuyệt nhiên chỉ có một hôn quân (xin lặp lại chỉ có một) là vua Lê Long Đĩnh còn gọi là Lê Ngọa Triều là vì vua tàn ác, lấy sự hành hạ giết hại dân kể cả những bậc tu hành, làm trò vui thú để tiêu khiển. May mắn thay, trong một ngàn năm đó, tuyệt nhiên chỉ có MỘT vì vua Lê Ngọa Triều mà thôi. Mãi cho đến 1945, Đất Nước không còn vua nữa, nhưng lại quá bất hạnh, nảy sanh CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH, tự xưng là “Kách Mệnh”, mà lại tàn ác nham hiểm giết hại dân lành gấp trăm gấp nghìn lần hơn vua Lê Ngọa Triều.
Trong Việt Nam Sử Lược, sử gia Trần Trọng Kim đã viết: “Long Đĩnh là người bạo ngược, tính hay chém giết, ác bằng Kiệt Trụ ngày xưa”. Cựu tướng Trần Độ, người cộng sản lão thành tận tụy phục vụ đảng gần 60 năm, sau cùng đã phản tỉnh và trước khi qua đời, ông đã viết trong Nhật Ký Rồng Rắn đại ý rằng cái chế độ xã hội chủ nghĩa của Việt Nam hiện nay, nó tàn bạo hơn cả chế độ của Tần Thủy Hoàng và dã man của chủ nghĩa phát xít Hitler. Nhưng ai đã xây dựng cái chế độ xã hội chủ nghĩa dã man tàn bạo đó, chính là Hồ Chí Minh chứ còn ai khác. Cho nên lời phê bình của Cựu tướng Trần Độ chủ ý nói rằng Hồ Chí Minh là kẻ tàn bạo hơn Tần Thủy Hoàng và dã man hơn Hitler! Nói tóm lại, trong Lịch Sử Việt Nam, trong thời gian dài 1.000 năm từ 1005 đến 1945, độc ác và sát hại dân chỉ có HAI:
Vua Lê Long Đĩnh và Chủ Tịch Hồ Chí Minh!
Triều vua Lê Long Đĩnh chỉ có 4 năm ngắn ngủi, còn Chế Độ Hồ Chí Minh kéo dài cho đến bao giờ? Thật khốn khổ thay cho Dân Tộc và Tổ Quốc Việt Nam!
Chúng ta đã đi qua một chặn dài 1.000 năm đẹp của lịch sử trước khi đến cảnh Ngục Tù do Hồ Chí Minh xây dựng để tìm gặp nhà sư Tuệ Minh bất hạnh bị giam cầm và tra tấn ở đấy cho đến chết! Nhà sư là nhân vật xuất hiện ở chương chót trong tác phẩm Địa Ngục Sình Lầy của tác giả Trần Nhu. Tác giả cũng là một người tù bất hạnh, bạn đồng tù với nhà sư Tuệ Minh. Sau đây là đôi dòng về tác giả Trần Nhu, trích trang bìa sau quyển Địa Ngục Sình Lầy:
“TRẦN NHU sinh năm 1938 tại Tiên Lãng, Hải Phòng, Bắc Việt Nam. Trước 1958 đi học và sáng tác văn học. Năm 1958 bị tù vì vượt biên qua Lào quốc và sáng tác văn học. Ra tù năm 1960. Bị bắt lại năm 1961 vì tranh đấu cho nhân quyền. Ra tù 1978. Vượt biên cuối 1981. Định cư tại Hoa Kỳ 1982.”
Như thế đó, phải vượt thoát khỏi đất Việt và đến tuổi ngũ tuần, Trần Nhu mới được Nữ Thần Tự Do trao cây viết lại để anh hoàn thành tác phẩm Địa Ngục Sình Lầy. Quyển sách được xuất bản năm 1990 lúc tác giả 52 tuổi! Trong Lời Nói Đầu, ta đọc được tâm tình thật cảm động của tác giả:
“Tôi viết để làm dịu đi những gay gắt, cam go ác liệt, để làm nhẹ vơi đi niềm ô nhục, làm yên ổn lương tri bị hành hạ của hàng triệu con người. Tôi viết để gột rửa trong đáy mắt những bà mẹ dòng lệ xót. Tôi viết cho hàng triệu nạn nhân đã chết, tôi viết cho những người còn sống nhưng không được quyền ăn nói, tôi viết cho quê hương đã bị vắt kiệt, tôi viết về quê hương đang bị đè nặng bởi những cái bóng vĩ đại, những cái bóng đã xô đẩy cả dân tộc tôi xuống vực thẳm, đã đổ bóng tối lên cả một vùng trời”.
Thật đẹp vô cùng, sứ mạng của cây viết Trần Nhu! Như đã trình bày ở trên, Vũ Thư Hiên cũng giống như Trần Nhu, hai người cùng một cảnh ngộ, một số phận hẩm hiu như nhau trong “Thiên Đường Mù”. Vũ Thư Hiên cũng phải đào thoát khỏi Việt Nam, sống lưu vong ở Pháp, không bị công an bịt miệng, mới hoàn thành xong Đại Hồi Ký Đêm Giữa Ban Ngày để làm món quà trân quý trao tặng cho thế hệ tương lai.
Xin trở lại chuyện người tù là nhà sư Tuệ Minh. Một buổi chiều cuối hạ năm 1965, khi Trần Nhu chuyển từ trại Xuân Giang đến trại Hoàng Xu Phì ở đông bắc tỉnh Hà Giang, thì đã gặp sư Tuệ Minh bị giam ở đấy không biết từ năm nào. Trại Hoàng Xu Phì thật xứng đáng là Ngục Tù Mẫu Mực của Chế Độ Hồ Chí Minh. Ở Cổng Hậu sát bìa rừng có Nhà Xác, địa điểm được chọn lựa quá khéo rất thuận lợi cho việc kéo xác tù đi chôn. Nhà Xác lại đối diện với Nhà Giáo Dục, lại một thiết kế rất khôn ngoan. Trong Nhà Giáo Dục bày ngổn ngang những dụng cụ tra tấn như kìm búa, dùi sắt, dùi tre, mũ gò bằng tôn sắt, loại tôn dày, vài cuộn dây rừng, v.v… Về mùa nóng cũng như mùa lạnh, nhà này có một lò than luôn luôn cháy đỏ, dùng để nung dùi và mũ sắt. Mũ này người tù ở trại gọi là “mũ cụ”. Mũ gõ bằng loại tôn sắt giống như chiếc mũ cối của bộ đội, mũ được nung đỏ, rồi trói tù lại chụp lên đầu, làm cho người tù kêu rú, rống lên. Theo tiếng rú khiếp đảm của những người tù xấu số, lũ chuột rừng kéo vào hàng đàn chạy lăng xăng qua lại giữa Nhà Giáo Dục và Nhà Xác chờ được thưởng thức bữa tiệc thịt người do Quản giáo Việt cộng thết đãi!
Trong văn phong của Trần Nhu, nhân dáng hình hài của sư Tuệ Minh còn sót lại sau những năm dài trong ngục tù của chế độ Hồ Chí Minh như sau:
“... Chợt tôi thấy một cảnh vệ và hai tù nhân trong ban Trật tự của trại, nhưng họ ở bên hình sự, lôi kéo xền xệt trên mặt đất, một người gầy nhom, bẩn thỉu, tanh hôi vào cửa buồng và giao cho Buồng trưởng. Người tù bò bốn chân, quần để tuột xuống hẳn ống cẳng chân, làm cả khoảng bụng, đít phơi trần truồng. Manh áo nhuộm máu đã khô, che không kín lưng, phía dưới để hở rõ bộ xương sườn xám đét, khô đầu trơ sọ tráng loét xuống tận cổ, hai tai bị cắt cụt, đôi mắt trũng sâu như lỗ đáo, dòi bọ bò lêu nghêu khắp thân thể. Tự nhiên một cảm giác ớn lạnh luồn vào cơ thể chạy suốt chân. Tôi nhìn người tù, không còn ra hình dáng con người nữa, nó méo mó biến dạng một cách khủng khiếp.”
Nhưng thật lạ! Ở nhà sư Tuệ Minh, thân thì “Những vết rạch ngang dọc trên đầu, trên mặt, cổ và bộ ngực. Tai không còn nghe rõ, miệng không còn đọc kinh niệm Phật, thân thể không còn nguyên vẹn như xưa, lột hết cả áo tu hành, con người trần trụi.” Ở nhà sư Tuệ Minh, ở bộ xương còn biết cử động ấy, dường như có một dấu hiệu lạ, toát ra một phong độ kiên hùng, vững chắc. Trần Nhu thuật tiếp rằng Sư Tuệ Minh bình tỉnh tưởng như không có chuyện đau đớn thể xác, không rên xiết, hoàn toàn không. Rồi những ngày sống kế tiếp, Sư lẵng lặng ngồi tư thế tụng niệm của đức Phật, vẫn không một tiếng rên xiết, tuyệt nhiên không. Trần Nhu hỏi một lão tù già về sư Tuệ Minh, qua giọng thều thào như nghẹt ở cuống họng, lão kể lể từng câu, ngừng năm, mười phút, rồi thuật tiếp, chuyện kể luôn đứt đoạn, câu nghe được cũng rất khó hiểu:
“Sư khừ khừ… bị a… khừ khừ… a… kỷ luật a… vì a… khừ khừ… nghỉ ngày a… Phật Đản a… Rồi a… Ban Giám Thị a… khừ khừ a… cắt tai… khừ khừ… gọt đầu a… khừ khừ… sư… khừ khừ… bằng mảnh chai a… khừ khừ… dùi nung đỏ a… khừ khừ… sư… a… sư!
Nhà sư Tuệ Minh chết trong trại giam Hoàng Xu Phì. Mãi sau này, Trần Nhu mới biết rõ pháp danh ngài là Tuệ Minh, quê Thiện Hóa, thuộc xứ Thanh. Ngài xuất gia đầu Phật lúc tuổi mười lăm, với sư cụ Thích Thiện Hòa tại chùa Thiên Phúc bên dòng sông Đáy tỉnh Sơn Tây, nơi mà ngày xưa Thiền sư Từ Đạo Hạnh đắc đạo. Nhắc lại lúc Cách Mạng Mùa Thu 1945, Sư Tuệ Minh có mặt trong đoàn Đại Biểu tỉnh Sơn Tây, đến Hà Nội ngày 2-9-1945 để tham dự buổi mừng Tuyên Ngôn Độc Lập của Hồ Chí Minh. Ngài tham gia phong trào Phật Tử Yêu Nước theo truyền thống của tiền nhân, theo Tự Tình Dân Tộc.
Rồi nhà sư Tuệ Minh bị kết tội “lừa dối nhân dân, tuyên truyền phản cách mạng” và bị bắt giam ở trại Hoàng Xu Phì cho đến chết. Rất cần nhắc lại lúc Cách Mạng Mùa Thu 1945, Sư Tuệ Minh tháp tùng Phái đoàn Yêu nước tỉnh Sơn Tây đến Hà Nội trong Ngày Lễ Mừng Độc Lập 2-9-1945 để nghe Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Độc Lập tại Vườn Hoa Ba Đình. Đến bây giờ là Mùa Bịt Miệng 2007, không còn thời “Đêm Giữa Ban Ngày” nữa, Dân Tộc đã rất “rạch ròi trong những khái niệm” (chữ của Vũ Thư Hiên), Dân Tộc biết rất rõ rằng “ngoài miệng Hồ Chí Minh Cha Già Dân Tộc” thì tuyên bố những ngôn từ đẹp đẽ như quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, bình đẳng về quyền lợi v. v… như những công dân các nước Anh, Pháp, Mỹ được hưởng. Nhưng khốn khổ cho Dân Tộc, “trong tâm địa Hồ Chí Minh Quốc Tế Ủy Kominternchik” thì toàn là những vô gia đình, vô tôn giáo, vô tổ quốc, cải cách ruộng đất, đấu tranh giai cấp sắt máu… Chính Hồ Chí Minh Mới Là Kẻ Lừa Dối Nhân Dân, Tuyên Truyền Phản Cách Mạng, chứ không phải nhà sư Tuệ Minh.
Cùng phát biểu y như trên, tác giả Trần Nhu, người tù nhân 20 năm của Việt Cộng, viết trong đoạn kết luận cho quyển Địa Ngục Sình Lầy của ông với lời văn như sau:
“Ngày ấy, sư Tuệ Minh mang ý niệm tôn kính cụ Hồ như những bậc vĩ nhân yêu mến loài người. Khi cụ nói:
-- Mọi người đều được dựng lên “Bình Đẳng” trong đó có quyền sống, quyền được hưởng tự do, quyền tín ngưỡng, và dĩ nhiên không thiếu sót một thứ quyền nào cả.
Với lời lẽ trịnh trọng như một Washington, cụ hỏi:
-- Tôi nói đồng bào nghe rõ không?
Tất cả xúc động, đồng thanh:
-- Thưa cụ, rõ!
Nhưng lời hứa… Đó chỉ là lời hứa! Còn phải có thời gian… Rồi thời gian trôi đi. Mười năm sau. Đốt kinh, phá chùa, bắt tăng ni… cũng vẫn bộ mặt ấy! Vẫn ông cụ ấy! Vẫn thằng chọ chọe ấy! Bá ngọ, thằng cuội xứ Nghệ!”
Đó là nguyên văn Trần Nhu viết để kết luận cho quyển Địa Ngục Sình Lầy. Sách được viết xong ngày 8-7-1988 và tác giả tự xuất bản năm 1990. Bây giờ, người viết cũng xin mượn đoạn văn trên của tác giả Trần Nhu để kết luận cho chương “Hồ Chí Minh, Con Vẹt Của Stalin” này.
Người viết chỉ xin thêm:
“Miệng Lưỡi Hồ Chí Minh Cha Già Dân Tộc” thì thật HOÀN TOÀN TRÁI NGƯỢC với “Tâm Địa Hồ Chí Minh Quốc Tế Uỷ Kominternchik, Con Vẹt Của Stalin”!
Chính vì vậy mà sinh ra Đại Họa Hồ Chí Minh, Cơn Quốc Nạn của Dân Tộc Việt Nam!
Viết tại Sydney, Úc Đại Lợi
Mùa Quốc Hận 2008
Nhóm Tâm Việt Sydney
Wednesday, February 10, 2010
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment