Wednesday, February 10, 2010

Chương 6 Tư Tưởng Hồ Chí Minh

Bàn về mối tương quan giữa văn phong và tác giả, một văn sĩ Pháp có nói: “Văn tức là người”. Ở phương Đông, các bậc hiền giả dùng văn chương để giảng dạy nhân luân đạo nghĩa như câu của thánh hiền: “Văn dĩ tải đạo”. Cho nên để tìm hiểu con người Hồ Chí Minh, ta thử xem qua những ngôn từ ông phát biểu và trích vài đoạn văn thơ ông ta viết để xem bản chất chân tướng và tâm địa của ông ra sao! Sau đó ta nghiệm xem Hồ Chí Minh có xây dựng được hệ tư tưởng nào để đóng góp vào nền văn minh văn hóa cho Dân Tộc Việt Nam.
Đã Vô Thần Mà Còn Phê Bình Đức Phật
Trong sách của Trường Đại Học Nhân Văn, khoa Tâm Lý Học, đoạn nói về Đức, lời Hồ Chí Minh như sau:“Có đức mà không có tài như ông Bụt (Phật), thì không có hại gì cho xã hội, nhưng cũng chẳng có ích lợi gì cho xã hội”. Văn liệu nầy được trích từ điều 8 trong thư của huynh trưởng Hồ Tấn Anh gởi cho ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, các Tổ Chức Nhân Quyền và các Chánh Phủ trên khắp thế giới trước khi tự thiêu ngày 2-9-2001 để phản đối và tố cáo Chính Phủ Hà Nội đàn áp Phật giáo (Lá thư được tác giả Trần Viết Đại Hưng sưu tầm trong quyển Đối Lập Mặc Áo Cà Sa Và Chùng Thâm, trang 202).
Trong phạm vi tâm linh và tôn giáo, luật pháp vẫn dành tự do cho những người không tin tưởng Thánh Thần cùng Đức Phật và Đức Chúa. Đó là Tự Do Tín Ngưỡng và những người không tin như vậy có thể vỗ ngực tự xưng rằng mình là vô thần. Trong những nước tự do dân chủ, những người công dân dù là hữu thần hay vô thần vẫn sống hòa hợp bên nhau. Nhưng người cộng sản vô thần thì không được như vậy. Người cộng sản mà vô thần thì còn là vô đạo, vô luân, vô lễ giáo, bất nhân, bất nghĩa, bất lương, bất hợp quần, đứng ở lập trường vô thần của mình, nhìn những người hữu thần như kẻ thù cần phải tiêu diệt. Đó là nguyên nhân gây bất hạnh cho Dân Tộc Việt Nam, vì khi Hồ Chí Minh về Hà Nội đọc Tuyên Ngôn Độc Lập Dối Trá, thì ông đã là người Cộng Sản Vô Thần xem tôn giáo như là thuốc phiện cần phải giải trừ theo chính sách vô tôn giáo của các bậc thầy Lenin và Stalin. Đúng ngay ngày 19-8-1945 là ngày Hồ Chí Minh cướp chính quyền ở Hà Nội, thì ở Hà Đông, đất bằng bỗng dậy sóng. Sư phụ của thầy Thích Quảng Độ là Hòa Thượng Thích Đức Hải bị tòa án nhân dân vu cáo về tội “Việt Gian Bán Nước” và bị kết án tử hình. Chúng đánh đập Hòa Thượng hết sức dã man trước khi hành quyết, trước sự chứng kiến của thầy Thích Quảng Độ lúc đó chỉ mới 18 tuổi.
Hai câu lục bát trong truyện Kiều của Nguyễn Du “Có tài mà cậy chi tài - Chữ tài liền với chữ tai một vần” mà người Việt nào cũng ghi nhớ để trau dồi đức tính Khiêm Cung, đức tính mà Hồ Chí Minh dẫm đạp dưới chân để tiến bước trên con đường lập dị tự mình viết sách để thần thánh hóa mình. Còn bàn về tương quan nghiệp quả giữa Tài và Đức, thì một nhà hiền triết phương Đông có nói: “Người có đức mà không có tài là người hiền. Còn người có tài mà không có đức là người ác”. Khi Hồ Chí Minh cho rằng Đức Phật không có tài thì chúng ta còn có thể miễn cưỡng, nhưng khi ông cho rằng vì Đức Phật chỉ có đức mà không có tài nên cũng chẳng có ích lợi gì cho xã hội, thì ông tự thú nhận rằng chữ đức không quan trọng trong việc ích nước lợi dân, nhân sinh quan Hồ Chí Minh như vậy thật sai lầm và tai hại vô cùng. Trong Tự Tình Dân Tộc, Tài và Đức được xem trọng ngang nhau. Thành ngữ Tài Đức Vẹn Toàn là để tôn vinh những bậc minh quân và những vị quan cầm cân nẩy mực có tài kinh bang tế thế và nhân từ đức độ trong lịch sử mà triều đại nào cũng có. Bởi Trọng Tài Khinh Đức như vậy, nên Hồ Chí Minh đã thành người cai trị bạc đức nhất và tàn ác nhất trong lịch sử Việt Nam.
Nhưng bạn đọc thân mến ơi! Khi chúng ta luận về Tài và Đức của Đức Phật, Đức Khổng, hay Đức Chúa, thì chúng ta đã lọt vào bẫy của Hồ Chí Minh rồi. Trong những xã hội và dân chủ văn minh, chúng ta phân biệt thần quyền và thế quyền. Thần quyền dành cho những bậc tu hành chân chính, còn thế quyền là phạm vi hoạt động của những chính trị gia ở ngoài đời. Xuyên suốt dòng lịch sử, Hồ Chí Minh là người lãnh đạo chuyên dùng bạo lực công an và bộ đội để tóm thâu cả thần quyền và thế quyền trong tay mình. Chờ cho có thế mạnh trong tay, tức là lúc Mao Trạch Đông làm chủ nước Trung Hoa, Hồ Chí Minh có chỗ tựa vững chắc ở phía Bắc mới Leo Thang Chiến Tranh Đánh Dân Tộc và tung ra khẩu hiệu mới “Tiêu Diệt Năm Thành Phần Của Xã Hội: Trí Phú Địa Hào Và Tôn Giáo Lưu Manh” thêm “Tôn Giáo vào hàng ngũ phản động cần phải tiêu diệt”, vì khẩu hiệu “Trí Phú Địa Hào Đào Tận Gốc Tróc Tận Rễ” thì đã có từ lúc thiết lập phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh năm 1930 rồi. Xin đọc lại Bức Thư của Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang gởi cho các ông Lê Khả Phiêu, Trần Đức Lương, Phan Văn Khải và Nông Đức Mạnh ngày 21-4-2000:
“…Năm 1950, sống ở Liên khu 5 vào thời Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất, tôi đã từng nghe cán bộ và loa phóng thanh ra rả ngày đêm kêu gọi nhân dân tiêu diệt năm thành phần xã hội “Trí, Phú, Địa, Hào, và Tôn Giáo Lưu Manh”. Mười ngón tay mà chặt mất năm thì còn lại gì? Năm 1951, ông Nguyễn Duy Trinh, Chủ Tịch Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Liên Khu 5, đại diện Chính Phủ Trung Ương, tuyên bố rằng Phật Giáo đã đến lúc cáo chung.”
Nhà Phật có muôn kinh vạn quyển gồm Kinh, Luật, và Luận sưu tầm qua 4 kỳ Kiết Tập Kinh Điển. Lời Phật dạy vô vàn, học suốt đời biết có hết được chăng. Chỉ bàn về điều đầu tiên của Ngũ Giới là Cấm Sát Sanh vì Đại Lượng Từ Bi thương yêu tất cả Chúng Sinh, biết trọn đời chúng ta có giữ vẹn được hay chăng! Chỉ một án mạng là giết Nông Thị Xuân, người thiếu nữ ngây thơ trong trắng mà “Hồ Chí Minh Nguyễn Tất Thành” đã từng ân ái và sanh cho ông đứa con trai Nguyễn Tất Trung, ông đã phạm trọng tội sát sanh rồi, huống hồ ông là kẻ gây ra cuộc chiến tranh sát hại năm, sáu triệu nhân mạng và gây thương tật cả 10 triệu người. Trong Cuộc Chiến Tranh Của Hồ Chí Minh Đánh Dân Tộc, vô số người bị xử tử vì bị vu cáo là Việt Gian Bán Nước trong Lễ Tế Cờ của ông, vô số người tử trận ở hai bên chiến tuyến có khi là bà con hay anh em một nhà, vô số người chết dọc đường mòn Hồ Chí Minh vì bị rắn độc cắn, bị thú dữ vồ, bị sa chân xuống vực sâu, bị chết đói vì lạc đường (tác giả Bùi Tín trong quyển Hoa Xuyên Tuyết có kể đến 10 kiểu chết khác nhau, tác giả Xuân Vũ trong quyển Đường Đi Không Đến kể thêm 1 kiểu chết khác nữa là “bị bắn tầm đạn gần từ sau gáy”!), vô số người chết trong các ngục tù giả danh là trại Học Tập Cải Tạo, vô số người chết ngoài biển cả khi vượt biên vượt biển tìm tự do.
Đến đây, xin mở dấu ngoặc để bàn về Nạn Hải Tặc Thái Lan. Trong số những thuyền nhân bất hạnh bỏ mạng trên đường vượt biên, có những người là nạn nhân của Hải TặcThái Lan. Vì xảy ra trên vịnh Thái Lan, nên dư luận cho rằng do người Thái Lan gây ra. Xét vì dân Thái rất sùng đạo, gần như hầu hết những người thanh niên Thái để chuẩn bị bước vào đời thường phải vào chùa học đạo trong một thời gian từ một tháng đến ba tháng cho nên ba Giới Cấm căn bản của Ngũ Giới là Cấm Sát Sanh, Cấm Trộm Cắp, và Cấm Tà Dâm hẳn người Phật Tử Thái phải giữ nằm lòng. Vì thế có dư luận cho rằng đa số các hải tặc không phải là người Thái mà chính là nhóm người Việt ở Bắc Thái, tức là nhóm người đã gia nhập Đảng Cộng Sản Xiêm do Hồ Chí Minh thành lập hồi thập niên 20. Nghi vấn nầy có cái lý của nó ở điểm người Phật Tử Thái rất sùng đạo còn các người Việt ở Bắc Thái là cộng sản vô thần. Hồ Chí Minh một lòng theo Mác Lê trọn đời, cho đến lúc chết cũng để lại di ngôn sẽ gặp các ông Tổ Cộng Sản ở phía bên kia thế giới, cho nên ông đã phạm vô vàn tội ác mà không biết ăn năn sám hối, mà lại còn phê bình“Đức Phật không có tài ba” này nọ. Lời phê bình bất kính của Hồ Chí Minh đối với Đức Phật chỉ đáng vất vào Sọt Rác Lịch Sử mà thôi! Cũng đáng vất vào Sọt Rác Lịch Sử nhiều thứ khác nữa của Hồ Chí Minh, như Chủ Trương Tam Vô, Sách Lược Đấu Tranh Giai Cấp v.v…
Riêng về thủ đoạn của Cộng Sản tiêu diệt Phật Giáo, xin một nén tâm hương cúng dường và phút mặc niệm cho Huynh Trưởng Hồ Tấn Anh cùng các vị Tăng Ni và Phật Tử khác đã tự thiêu để phản đối chính phủ Hà Nội đàn áp và tiêu diệt Phật Giáo. Huynh Trưởng Hồ Tấn Anh đã cùng 13 Huynh Trưởng thuộc Gia Đình Phật Tử Quảng Nam phát nguyện tự thiêu để bảo vệ Chánh Pháp, và ông là người đi đầu. Xin nhắc trong số Phật Tử đã tự thiêu để phản đối Chính Phủ Cộng Sản vô thần đàn áp tôn giáo, ta có thể kể:
- Phật Tử Nguyễn Tấn Dũng tự thiêu tại Huế ngày 21-5-1993. Việt Cộng đổi tên người tự thiêu là Đào Quang Hộ và vu khống rằng ông buồn chuyện gia đình nên mới đi tìm cái chết.
- Đại Đức Thích Huệ Thâu 43 tuổi, tự thiêu ngày 28-5-1994 tại Tịnh Xá Ngọc Phật ở Ba Càng, Vĩnh Long.
- Bà Nguyễn Thị Thu Phật Giáo Hòa Hảo, 75 tuổi, tự thiêu ngày 19-3-2001 trên đường đến chợ Cái Tàu Hạ xã Tân Hội, tỉnh Đồng Tháp để đòi Việt Cộng trả tự do cho cụ Lê Quang Liêm và đòi ngưng đàn áp Phật Giáo Hòa Hảo. Nhục thân của bà Thu bị Việt Cộng cướp đi và không chịu trả lại cho thân nhân làm lễ an táng.
- Cô nữ sinh viên Phật tử người Đức Sabine Kratze pháp danh Từ Tâm. Năm 1991, cô Sabine sang Việt Nam học tiếng Việt ở Sài Gòn và tốt nghiệp thủ khoa năm 1994. Sau đó cô theo học ngành y dược dân tộc, cô đi thăm viếng nhiều danh lam cổ tự từ Nam chí Bắc, rồi cô quy y với pháp danh là Từ Tâm và thụ trường trai. Đến khi nghe tin về vụ xử Thầy Thích Quảng Độ và Chư Tăng Phật tử ngày 15-8-1995, cô Sabine Từ Tâm vô cùng xúc động và tự thiêu ngày 2-9-1995 cúng dường Chánh Pháp để phản đối vụ án bất công phi pháp của Việt Cộng và cầu nguyện cho GHPGVNTN sớm thoát cảnh Pháp nạn.
- Nhưng bi hùng nhất là Vụ Tự Thiêu Tập Thể Của 12 Vị Tăng Ni tại chùa Dược Sư ở Cần Thơ ngày 2-11-1975. Về vụ việc nầy, Việt Cộng vu khống các tăng ni hủ hóa với người ngoài và tự hủy mình vì xấu hổ. Chúng đưa Thầy Thích Quảng Độ xuống Cần Thơ và yêu cầu thầy ký vào biên bản chúng ngụy tạo, nhưng Thầy nhất định không ký.
- Phật tử Phạm Gia Bình, trường hợp rất đặc biệt vì anh vốn là thuyền nhân, định cư ở Boston, tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ. Anh tự thiêu lúc 7 giờ sáng ngày 6-4-1993 để lại các bức thư tố cáo CS đàn áp Phật giáo gởi cho Tổng thống Clinton, Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Hòa thượng Thích Huyền Quang, Cư sĩ Võ Văn Ái, và chư Tăng, Ni, Cư sĩ.
Đã Bán Nước Mà Còn Khoe Tài
Khoảng năm 1947, trong buổi viếng thăm đền Kiếp Bạc ở Hải Dương thờ Đức Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Hồ Chí Minh có làm một bài thơ Đường nhan đề Viếng Đền Kiếp Bạc. Bài thơ như sau:
Cũng là hào kiệt, cũng anh hùng
Tôi Bác cùng chung nợ kiếm cung
Bác thắng quân Nguyên thanh kiếm bạc
Tôi trừ giặc Pháp ngọn cờ hồng
Bác đưa một nước qua nô lệ
Tôi dắt năm châu đến đại đồng
Bác có linh thiêng cười một tiếng
Mừng tôi cách mạng sắp thành công
Bài thơ tưởng rằng có khẩu khí anh hùng, nào ngờ nó lại nói lên tính tình ngạo mạn vì Hồ Chí Minh đã xưng “Tôi Tôi Bác Bác” như người ngang hàng với Đức Thánh Trần, vị anh hùng dân tộc mà ai ai cũng một lòng tôn kính. Chúng ta thường ví những người dân trong nước như những đứa con của một Đại Gia Tộc vì chúng ta vẫn tin ở Truyền Thuyết Một Mẹ Trăm Con, truyền thuyết mà chúng ta hãnh diện và giữ gìn như gia bảo thiêng liêng. Thử tưởng tượng trong ngày kỵ giỗ của một bậc tiên hiền của Đại Gia Tộc như Đức Thánh Trần đã hai lần đại phá quân Nguyên, trong lúc những đứa con hiếu thuận của Đại Gia Tộc Việt Nam đều thành tâm cúng bái để tưởng niệm công đức của Ngài, thì đứa con ngỗ nghịch là Hồ Chí Minh leo lên bàn thờ ngồi để “Tôi Tôi Bác Bác” với Ngài như người ngang hàng với mình và lại còn khoe mình tài ba hơn Ngài. Như vậy thì xem Tội Phạm Thượng và Bất Kính của Hồ Chí Minh có đáng bị đánh đòn hay không? Đáng lắm chứ! Nhưng phạt đòn thì còn quá nhẹ!
Đứa con ngỗ nghịch của Dân Tộc là Hồ Chí Minh đáng bị đánh đòn thật, nhưng trước khi phạt đòn, xin đọc lời luận tội của Bác sĩ Phan Quang Đán bằng bài thơ họa Hỏi Tội Hồ Tặc (Trích Nguyệt San Bất Khuất, số 2 tháng 4 năm 1990, trang 47):
Bớ tên Hồ tặc, Vẹm gian hùng
Dám sánh Đức Trần nghiệp kiếm cung!
Mi đứa tay sai Sô-Viết đỏ
Ngài vì sao sáng giống nòi Hồng
Bình Nguyên Ngài cứu non sông Việt
Tổ Quốc mi quên nghĩa cộng đồng
Nô lệ toàn dân nay đói rách
Như mi bán nước tội hay công?
Bác sĩ Phan Quang Đán dùng bài thơ họa Hỏi Tội Hồ Tặc cũng chưa luận hết tội, nên ông phán thêm vài lời như sau:
“Tên Hồ Chí Minh văn bất thành cú, làm tay sai cho ngoại bang, lưu manh, tàn ác, gieo rắc căm thù oán hận, phá hoại đoàn kết dân tộc, hy sinh xương máu hàng triệu người, làm mất nước, dân thành nô lệ, đói rách kêu không thấu trời. Đức Trần Hưng Đạo và tên Hồ Chí Minh khác nhau một trời một vực, một bên là thiên thần, một bên là quỷ sứ vậy!”
Luận về tội Hồ Chí Minh đã phạm thì vô cùng bất tận! Nhưng đối chiếu với chiến công hiển hách của Đức Thánh Trần hai lần đại phá quân Nguyên để bảo toàn bờ cõi, tội của “Quỷ Sứ Hồ Chí Minh” để làm mất đất, mất biển, mất hải đảo của Tổ Quốc thì không tội nào lớn bằng (“quỷ sứ” chữ của Bác sĩ Phan Quang Đán). Sự việc mất đất xảy ra ở biên giới Việt Hoa, xin đọc quyển Ma Đầu Hồ Chí Minh, tác giả Hoàng Quốc Kỳ (trang 199):
“Từ năm 1950, lợi dụng phía Việt Nam đang bận rộn chiến cuộc, Trung cộng cho quân lén dời cột mốc từ Mường Te đến Móng Cáy sâu vào nội địa Việt Nam, có chỗ đến hàng cây số. Từ năm 1954 trở đi, họ vẫn tiếp tục nửa đùa nửa thật, vừa lén lút lấn đất của ta theo các kiểu sau đây. Lính Trung cộng thường xuyên sang phía biên giới Việt Nam cười cợt với bộ đội Việt cộng để mượn chậu, xin nước giặt giũ. Giặt xong, họ tắm luôn. Trước khi tắm, họ đóng bốn cái cọc rồi lấy vải nhựa (nylon) quây chung quanh. Tắm xong, họ cứ để nguyên cái “phòng tắm” như vậy, còn để cả hộp xà phòng, khăn lau ở đấy. Dĩ nhiên, bộ đội Việt cộng đâu dám động tới những thứ đó, vì sợ mất “tình hữu nghị”. Rồi thì chiều nào, họ cũng sang tắm giặt một cách rất tự nhiên. Lâu ngày, họ dựng cả nhà ở ngay bên cạnh “phòng tắm”. Thế là khoảng đất ấy thuộc về họ. Cách thứ hai là họ trồng các thứ bí, khoai… cho bò qua biên giới Việt Nam. Bộ đội Việt cộng lại càng không dám đụng tới, vì sợ mang tội ăn cắp hay phá hoại sản xuất của “nước bạn”. Và cứ thế, họ cuốc lấn dần, lấn dần vào đất của ta, mỗi mùa một quãng. Cách thứ ba, lợi dụng những đêm tối trời, mưa to gió lớn, họ đi dời những cột mốc sâu vào phần đất Việt Nam. Tình hình đó được cả trăm trạm tiền tiêu dọc biên giới Việt Hoa báo cáo lên chính phủ, nhưng Hồ Chí Minh cam tâm im lặng để Trung cộng không ngừng lấn tới. Đã thế, “Bác” còn già mồm hứa hão rằng sẽ đi gặp bác Mao giải quyết trong tình hữu nghị”.
Hồ Chí Minh chỉ hứa hão như thế cho xong chuyện mất đất ở biên giới. Còn việc mất hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa thì đã có Phạm Văn Đồng đứng ra chịu đạn vì chính Phạm Văn Đồng lúc đó giữ chức Thủ Tướng đã ký Công Hàm ngày 14-9-1958 xác nhận chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo đó. Trong một chế độ mà Hồ Chí Minh được tôn vinh là “Cha Già Dân Tộc” và đã tự hào phát biểu (với tướng Salan của Pháp năm 1946): “Họ làm được cái gì mà không có tôi. Chính tôi đã tác thành cho họ mà!”. “Họ” đây là những Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Hoàng Văn Hoan, Trường Chinh, v.vân…
Giáo sư P.J. Honey, một học giả rất am tường về Cộng Sản Việt Nam, vì chính ông đã giảng dạy môn nầy bằng tiếng Việt tại đại học Luân Đôn và ông cũng là cố vấn của Ban Việt Ngữ đài BBC trong một thời gian dài, đã nói về uy quyền và sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh trong Đảng như sau (Trích Hồ Chí Minh-Nhận Định Tổng Hợp, tác giả Minh Võ, trang 315):
“Chỉ một mình ông (Hồ) quyết định những vấn đề chính trị cao cấp, còn những kẻ khác, kể cả các ủy viên Bộ Chính Trị, chỉ có việc chấp nhận và tuân hành mệnh lệnh của ông về các vấn đề liên quan.”
Cho nên việc thủ tướng Phạm Văn Đồng ký công hàm giao hai quần đảo cho Trung Quốc được tác giả Hoàng Quốc Kỳ diễn tả là “do Hồ Chí Minh cầm tay Phạm Văn Đồng ký” giống như cô giáo cầm tay em bé lớp vỡ lòng viết những chữ A, B, C đầu đời. Thêm một trường hợp Hồ Chí Minh chơi trò Ném Đá Dấu Tay: “Bác” đã ký tên Bán Nước bằng Bàn Tay của Phạm Văn Đồng.
Về chủ quyền hai quần đảo Trường Sa (Spratly) và Hoàng Sa (Paracel) được tác giả Lê Văn Ngộ trong Hội Đồng Hương Tây Ninh ở Sydney nghiên cứu rất tường tận trong tác phẩm Mùa Xuân Cho Dân Tộc Việt Nam. Tác giả Lê Văn Ngộ (trong tác phẩm Mùa Xuân Cho Dân Tộc Việt Nam, xuất bản ở Sydney năm 1999) trưng dẫn rất nhiều tài liệu như Trường Sa Nhất Nhật Trình đời vua Lê Thánh Tôn (thế kỷ 15), Thiên Nam Tứ Chi Lộ Đồ Thư năm 1700, Phủ Biên Tạp Lục năm 1776, vua Gia Long cho lập Đội Hải Quân để bảo vệ Hoàng Sa và Trường Sa năm 1802, Địa Dư Chí năm 1821, Hoàng Việt Địa Dư Chí năm 1883, Đại Nam Thực Lục Tân Biên năm 1844, Đại Nam Thực Lục Chính Biên năm 1848, Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sử Lệ năm 1851, Việt Sử Cương Giám Khải Lược năm 1876, Đại Nam Nhất Thống Chí năm 1910, và rất nhiều tài liệu của các sử gia Pháp. Giám mục Taberd, một nhà bác học và thám hiểm nổi tiếng, có vẽ bản đồ cổ An Nam Đại Quốc Bản Đồ năm 1838 xác nhận Hoàng Sa là Bãi Cát Vàng (nguyên văn Katvang) của Việt Nam.
Gần đây nhất, vào ngày 6 và 7 tháng 9 năm 1951, dưới thời Quốc Trưởng Bảo Đại chấp chánh, thủ tướng Trần Văn Hữu tham dự Đại Hội Quốc Tế ở San Francisco cùng với 50 quốc gia. Trong hội nghị nầy, thủ tướng Trần Văn Hữu đã chính thức lên tiếng xác nhận chủ quyền của Việt Nam tại Trường Sa và Hoàng Sa, kết quả là không có quốc gia nào phản đối. Như vậy mặc nhiên chủ quyền của Việt Nam đã được quốc tế công nhận.
Đến bây giờ hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, xin Dân Tộc hãy ghi nhận công lao của thủ tướng Trần Văn Hữu dưới thời Quốc Trưởng Bảo Đại. Đồng thời cũng xin ghi thật đậm nét vào lịch sử việc “nhắm mắt ký tên bán nước” của thủ tướng Phạm Văn Đồng dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh để làm mất Trường Sa và Hoàng Sa. Hai thủ tướng, hai chế độ, hai thái cực! Dân Tộc đành phải gọi Hồ Chí Minh là Đại Việt Gian, Đại Phản Nghịch, Đại Tội Đồ về tội Bán Nước xuyên suốt 4000 năm lịch sử! Chỉ có Một, Một mà thôi, không có Hai, không ai bằng!
Dạy Dân Kêu Trời Bằng “Thằng”
Nhà văn Vũ Thư Hiên, trong thời gian ở tù 10 năm, đã khám phá vô số những xảo trá và đê hèn của Việt Cộng. Như trong phép xưng hô của Việt Cộng, Hồ Chí Minh đã thiết lập một chiến tuyến giữa bạn và thù thật minh bạch (Trích Đêm Giữa Ban Ngày của Vũ Thư Hiên, trang 265):
“Trong tiếng Việt của ta cách xưng hô thật phong phú. Vào Hỏa Lò tôi mới biết ở đây, hay nói cho đúng trong ngành công an, có lệ bất cứ ai bị bỏ tù đều là thằng hết, còn ai chưa bị bỏ tù, nhưng có thể bị bỏ tù, thì gọi tên không. Cách gọi thằng, con trong ngôn từ chính trị có cội nguồn của nó. Nó xuất hiện vào cuối cuộc kháng chiến chống Pháp. Chính ông Hồ Chí Minh dùng cách gọi này trong những cuộc nói chuyện với cán bộ và trong những bài viết trên báo Cứu Quốc: thằng Mỹ, thằng Pháp, thằng Xihhanúc, thằng Lý Quang Diệu, thằng Măng-đét-Phrăng…”
Cách gọi như thế được coi như sự khẳng định lập trường chính trị, cho nên công an và văn nô đều nói và viết theo “Bác Hồ” của chúng, Vũ Thư Hiên viết tiếp: “Theo gương ông, về sau người ta gọi kẻ thù nào cũng bằng thằng hết: thằng Bảo Đại, thằng Diệm, thằng Khánh, thằng Kỳ, thằng Thiệu…”
Rồi cũng theo gương Hồ Chí Minh coi trời bằng vung, và với khí thế đang lên rất cao sau năm 1975, các đội thủy lợi ở miền Nam trương khẩu hiệu lên khắp nơi, khoe tài làm thủy lợi và kêu TRỜI bằng “thằng”:
“Thằng trời đứng ra một bên,
Để cho thủy lợi tiến lên thay trời.”
Người ký giả lão thành Nguyễn Ang Ca, đã sống qua các thời Pháp thuộc, thời VNCH, và thời Việt Cộng cai trị, có viết một bài báo nhan đề Sài Gòn: Toàn Những Chuyện Khó Tin Mà Có Thật với đoạn kết như sau (Trích Bán Nguyệt san Chiêu Dương, số 16 năm 1983, trang 29):
“Đối với bọn Cộng Sản Việt Nam, chuyện gì chúng cũng có thể làm. Trời, Đấng Jésus Christ, Phật Tổ Thích Ca, Đức Giáo Hoàng…, bọn Cộng Sản đều gọi tuốt bằng “thằng”, chỉ có Bác, Lênin, Mao Trạch Đông là bọn chúng xưng tụng thôi, thì thử hỏi bọn Cộng Sản Việt Nam đâu có còn lương tri chi nữa mà phê bình và luận bàn vậy.”
Trong mục Ý Kiến Độc Giả của Bán Tuần Báo Việt Luận ngày 14-9-2007, có bài góp ý của độc giả Phan Quang Cảnh, xin được trích: “Người có văn hoá, sống trong xã hội văn minh, không nên xử dụng ngôn ngữ hạ cấp. Trên báo Thông Luận ngày 4-9-2007, giáo sư Nguyễn Văn Trung có kể chuyện học giả Đào Duy Anh vào Nam sau 1975 và đến thăm một số trí thức miền Nam. Trong câu chuyện, học giả Đào Duy Anh thường gọi “Thằng Diệm, Thằng Thiệu”. Chúng tôi chỉnh: “Thưa Cụ, trong Nam, một cách chính thức trên sách báo, khi nói tới những lãnh tụ miền Bắc bao giờ cũng gọi là “ông” cả, ông Hồ Chí Minh, ông Phạm Văn Đồng… không bao giờ gọi là “thằng”. Học giả Đào Duy Anh thú nhận: “Tôi sống với họ lâu năm quá nên cũng bắt chước thói quen hạ cấp. Xin lỗi”.
Cái Nôi Của Nền Văn Hóa Việt Tộc!
Ông bà chúng ta ngày xưa coi trọng lời ăn tiếng nói và để lại cho chúng ta cả một kho tàng về phép ăn nói sao cho hợp lễ nghi phong hóa, nào là: “Trước khi nói phải uốn lưỡi bảy lần”, “Một tiếng chào cao hơn mâm cổ”, “Trình, thưa, vâng, dạ, đứng, ngồi - Gái trong kim chỉ, trai ngoài bút nghiên”, “Tiên học lễ, hậu học văn”, v.v… Bậc hiền mẫu như mẹ cụ Phan Bội Châu dạy dỗ lúc cụ lên sáu, thì cẩn trọng giữ gìn lời nói cho đến “nửa câu nói cũng không khinh xuất”. Chúng ta học thêm được một nếp sống đẹp: trong từ đường Phạm tộc ở An Lễ của Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy có bức hoành phi với 4 chữ Ngôn Hành Kính Tín (Lời dạy của bức hoành: lời nói phải đi đôi với việc làm để được người đời kính trọng và tin tưởng). Nhưng“Thượng bất chánh, hạ tất loạn”, Hồ Chí Minh tự xưng là Cách Mạng Bài Phong Đả Thực mà lại du nhập cách xưng hô côn đồ vô lễ giáo “con nầy thằng kia” làm bại hoại gia phong quốc pháp, đạp đổ hết những thuần phong mỹ tục mà tiền nhân đã dày công tô điểm từ thời lập quốc. Ngục Sĩ Nguyễn Chí Thiện, trong bài thơ tả cảnh tù ở những vùng núi rừng sâu thẩm, đã đặt câu hỏi cho thế giới trả lời:
“Từ vượn lên người mất mấy triệu năm
Từ người xuống vượn mất bao năm?
Xin mời thế giới tới thăm
Những trại tập trung núi rừng sâu thẩm”
Đâu có cần phải đến những vùng rừng núi xa xăm ở miền thượng du Việt Bắc! Ở ngay vùng châu thổ sông Hồng, Cái Nôi Của Nền Văn Hóa Việt Tộc, Hồ Chí Minh từ Nga Tàu về đánh phá tan tành và gây thành cảnh địa ngục trần gian để trú ngụ một xã hội vô cùng man rợ. Đây, một trích đoạn của tác giả Huy Vũ, trong bài Chuyện Lánh Nạn Cộng Sản Năm 1954 Của Gia Đình Tôi (Nguyệt san Làng Văn, số 213 tháng 5 năm 2001, trang 75):
“Trong giai đoạn hạ uy thế nầy (đợt Phóng Tay Phát Động Quần Chúng cuối năm 1954), thầy mẹ tôi tuy đã trên dưới sáu mươi, song khi ra đường gặp nông dân hay con cái của họ, dù chỉ là đứa trẻ nít năm sáu tuổi, chẳng những phải đứng nép về một phía bên để nhường lối đi cho họ, mà còn phải chắp tay trước ngực, phải cuối đầu và nói lớn: “Con xin kính chào ông (hay bà) nông dân”. Ngoài ra, thầy mẹ tôi còn bị nông dân và đám con cái hỉ mũi chưa sạch của họ hạch hỏi, hành hạ, ném đá, đánh đập, và gọi là thằng này, con kia.”
Trong một bài viết của Dương Thu Hương vào năm 2002, chúng ta hãy nhìn xem vào những năm 1953-1955 (trong CCRĐ), Cái Nôi Của Nền Văn Hóa Việt Tộc đã bị Hồ Chí Minh biến thành một vùng dã man và con người biến thành dã thú:
“Trong lịch sử bốn ngàn năm, triều đình Cộng Sản là triều đình duy nhất cho tới nay, dậy con gái, con dâu vu khống bố hiếp dâm; dậy con trai, con rể chỉ vào mặt bố “đả đảo thằng bốc lột”, dậy cho láng giềng tố cáo điêu chác, đâm chém, dầy xéo mồ mả của nhau… Khi con người đã đủ can đảm vu khống, nhục mạ ngay bố mẹ đẻ của mình thì họ thừa sự nhẫn tâm để làm những điều ác gấp ngàn lần như thế đối với tha nhân”.
Cuộc “Kách Mệnh” của Hồ Chí Minh “thành công, thành công, đại thành công”! Hồ Chí Minh đã xây dựng được một xã hội man rợ để cho trẻ con năm, sáu tuổi gọi những bậc cao niên là “con nầy thằng kia”! Man rợ tột cùng! Nào có kém bộ lạc ăn thịt người! Ai là người được Hạnh Phúc trong một xã hội như vậy? Cha Mẹ chúng chăng? Chắc là không. Họa chăng chỉ có Hồ Chí Minh! Dân Tộc ơi! Hồ Chí Minh đại thành công, nhưng Dân Tộc đại bất hạnh! Hãy khóc cho thật nhiều đi! Hồ Chí Minh đã phá nát hết cả rồi! Đâu còn “Kính Lão Đắc Thọ”! Đâu còn Thuần Phong Mỹ Tục, Lễ Nghi Phong Hóa Bốn Ngàn Năm Văn Hiến của Ông Bà Tổ Tiên để lại! Đã mất hết cả rồi!
Cam Tâm Làm Kominternchik Của Komintern
Trong bộ Hồ Chí Minh Toàn Tập, lời giảng dạy của Hồ Chí Minh về Quốc Tế Cộng Sản như sau :“Đệ Tam Quốc Tế là một đảng Cộng sản thế giới, các đảng ở các nước như là chi bộ, đều phải nghe theo kế hoạch và quy tắc chung. Việc gì chưa có lệnh và kế hoạch của Đệ Tam Quốc Tế, thì các đảng không được làm”.
Xem ra Hồ Chí Minh có vẻ hãnh diện việc Đảng Cộng Sản Việt Nam được làm một chi bộ của Đệ Tam Quốc Tế. Về mặt điều hành việc đảng ở trong nước thì Hồ Chí Minh hô hào khẩu hiệu “Đảng lãnh đạo, Nhà Nước quản lý, Nhân Dân làm chủ.” Ở trong nước thì như thế, Đảng lãnh đạo một cách độc tài, là chủ nhân ông đứng trên cả nhà nước và quốc hội. Nhưng đối với Đệ Tam Quốc Tế, theo lời giảng dạy của Hồ Chí Minh thì: “Việc gì chưa có lệnh và kế hoạch của Đệ Tam Quốc Tế thì các đảng chi bộ không làm được”. Chúng ta đã thấy được gì chăng? Chúng ta nói lên được điều gì chăng? Hỏi tức là trả lời, nếu ta dùng xảo ngôn tuyên truyền của Hồ Chí Minh để trả đòn, thì câu giải đáp hiển nhiên là: “Đảng Cộng Sản Việt Nam do Hồ Chí Minh thành lập và lãnh đạo chỉ là đảng bù nhìn tay sai của Đệ Tam Quốc Tế, và nước Việt Nam là chư hầu, là thuộc địa của Đế Quốc Đỏ Liên Xô!” Khi Hồ Chí Minh cam tâm làm Kominternchik của Komintern (tức là Quốc Tế Ủy của Đệ Tam Quốc Tế), thì ông đã phế bỏ Độc Lập của Dân Tộc rồi! Bộ sách Hồ Chí Minh Toàn Tập gồm 12 tập dài 7.866 trang chứa đầy những Tư Tưởng của Hồ Chí Minh là một mối Ô Nhục Lớn cho Nền Văn Hóa Dân Tộc! Phải mau mau vất vào Sọt Rác Lịch Sử, càng để lâu cho sinh viên học càng thêm di hại! Dân Tộc hãy quay về học lại bài học yêu nước của danh tướng Trần Bình Trọng “Thà Làm Quỷ Nước Nam Hơn Làm Vương Đất Bắc”. Lời kêu gọi “Hãy Trở Về Với Dân Tộc” thật thống thiết và khẩn cấp vô cùng!
Bậc Thầy Về Môn Xảo Trá
Sau đây là câu chuyện Chỉ Là Cái Nắp Hộp Thuốc Lá, câu chuyện thật lý thú do tác giả Nguyễn Minh Cần kể lại (Trích quyển Đảng Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến Động Trong Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế, trang 62). Lúc đó là thời điểm 1950, Nguyễn Minh Cần giữ chức Ủy Viên Thường Vụ Tỉnh Ủy Thừa Thiên được Trung Ương Đảng Cộng Sản (lúc bấy giờ là Đảng Cộng Sản Đông Dương) triệu tập ra Việt Bắc dự hội nghị cán bộ để chuẩn bị cho Đại Hội 2 vào năm sau. Lúc đó có nhu cầu cần phải đổi tên Đảng Cộng Sản Đông Dương thành Đảng Lao Động Việt Nam để che dấu bộ mặt cộng sản hầu có thể lôi kéo nhiều tầng lớp dân chúng. Sau khi giải thích cho các đảng viên hiểu rõ ích lợi cần phải đổi tên đảng, Hồ Chí Minh giơ cao nắp hộp thuốc lá thơm “Craven A” về phía có nhản hiệu và nói: “Đây là Đảng Cộng Sản”, xong ông xoay nắp hộp về phía không có nhản hiệu và nói: “Còn đây là Đảng Lao Động.” Ông lại lớn tiếng hỏi: “Thế thì các cô các chú thấy có khác gì nhau không?” Cả hội trường đồng thanh đáp vang: “Dạ không ạ!” Ông mới nghiêm nghị:
“Các cô các chú nên biết rằng việc đổi tên đảng ta, Bác đã xin ý kiến các đồng chí Stalin và Mao Trạch Đông rồi, các đồng chí ấy đã đồng ý (tác giả Nguyễn Minh Cần cho chúng ta biết thêm hồi đó Hồ Chí Minh vừa từ Nga về ngang qua ngả Bắc Kinh). Các cô các chú nên biết rằng ai đó thì có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể nào sai được.”
Nghe Bác nói như vậy, cả hội trường vỗ tay vang rầm nhất trí với Bác. Lần đó là hội nghị chuẩn bị cho Đại Hội 2 năm 1950, Hồ Chí Minh đã tuyên bố như vậy. Sang năm 1951, vào đúng Đại Hội 2 của Đảng, Hồ Chí Minh cũng lặp lại nguyên văn:
“Ai đó thì có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể nào sai được.”
Lời Bàn: Chỉ một việc nhỏ là việc đổi tên đảng mà Hồ Chí Minh phải đi sang Tàu, phải đến tận Nga để hỏi ý kiến và xin phép các Đàn Anh Cộng Sản Lớn là Stalin và Mao Trạch Đông. Như vậy thì Tự Do và Độc Lập của Dân Tộc đâu có nằm ở Bắc Bộ Phủ! Và khi nhận được phép cho đổi tên đảng, Hồ Chí Minh lại chụp lấy cơ hội để nâng bi rằng đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể nào sai được! Đặt hết lòng tin vào hai tên Đại Đồ Tể Của Thế Kỷ, Hồ Chí Minh đã quá sai! Thảo nào “Bác” đã trở thành tên Đại Đồ Tể Thứ Ba và đã dẫn Dân Tộc đi lạc đường!
Lời Bàn Thứ Hai: Cũng chỉ là cái nắp hộp thuốc lá xoay vào xoay ra mà khi thì Cộng Sản, khi thì Lao Động để dối gạt Dân Tộc, vậy mà các đồng chí của Bác vẫn vỗ tay rầm rầm nhất trí với Bác. Đẹp thay! Toàn Đảng từ trên xuống dưới đều đồng một lòng dối gạt Dân Tộc! Hồ Chí Minh là bậc thầy tuyệt vời về môn xảo trá, lật lọng, đổi trắng thay đen, nói không thành có… Trong lịch sử 4000 năm văn hiến, nhất định không có một vị vua, một vị quan, hay vị thầy nào dạy dân hay học trò như vậy. Duy nhất, chỉ có một Hồ Chí Minh dạy Đảng Viên như vậy mà thôi.
Các đồng chí Stalin và Mao Trạch Đông của Liên Xô và Trung Quốc vĩ đại thì được Hồ Chí Minh xưng tụng là “không bao giờ sai lầm”. Còn đối với Lenin, khi Hồ Chí Minh đến Leningrad thì Lenin đã chết trước 2 ngày, tuy vậy Hồ Chí Minh cũng không bỏ lỡ dịp để viết bài ca ngợi Lenin: “…Khi còn sống, Người là Cha, là Thầy, là đồng chí và cố vấn của chúng ta. Ngày nay, Người là ngôi sao sáng chỉ đường cho chúng ta đi tới cách mạng xã hội…”. Bây giờ, ta hãy mở sách Trần Dân Tiên ra xem để biết lúc Hồ Chí Minh 15 tuổi, ông nhận xét thế nào về các bậc ái quốc mà Dân Tộc tôn kính.
“Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương. Anh nhận điều đó là sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương.”
“Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau.”
“Cụ Hoàng Hoa Thám còn thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp. Nhưng theo lời người ta kể thì cụ còn nặng cốt cách phong kiến.”
“Việt Nam Quốc Dân Đảng không có chính cương rõ ràng, chỉ lo tổ chức đám binh sĩ Việt Nam trong quân đội Thuộc Địa Pháp để bạo động.”
“Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội chỉ rập theo Quốc Dân Đảng Trung Hoa.”
Tôi Là Một Người Trung Quốc
Xin nhắc lại Hồ Chí Minh dùng ẩn danh Trần Dân Tiên viết quyển Những Mẫu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch để tự đề cao mình và phê bình chỉ trích những nhà cách mạng ái quốc tiền bối thì ông đã đánh mất đi đức tính khiêm cung của mình rồi để trở thành kẻ ngạo mạn coi trời bằng vung. Bởi thế cho nên có một tác giả viết bài phê bình gọi ông là Nhân Vật Vĩ Cuồng. Nhà ái quốc Việt Nam nào cũng bị ông chê cả mà ông chỉ dành sự ca ngợi cho các quan thầy Cộng Sản Lenin - Stalin - Mao của Nga Tàu mà thôi. Thật lạ lùng! Dân Tộc không thế nào hiểu nổi cho đến khi khám phá ra lời thú nhận của ông! Nhắc lại lúc Hồ Chí Minh còn mang tên Nguyễn Ái Quốc, được Đệ Tam Quốc Tế cử sang Quảng Châu hoạt động trong phái đoàn của Borodin, mọi chi phí do Ban Phương Đông đài thọ, hẳn công tác hợp với sở nguyện, cho nên ông thích chí và có lời thú nhận lạ lùng! Đây này, xin mời xem. Trong bản báo cáo đầu tiên của Hồ Chí Minh ngày 18-12-1924, sau một tháng có mặt tại Quảng Châu, đã có những dòng chữ cuối thật lạ lùng như sau:
“Trong lúc này, tôi là một người Trung Quốc chứ không phải là một người Việt Nam và tên tôi là Lý Thụy chứ không phải là Nguyễn Ái Quốc”.
Lời tự thú “Tôi Là Một Người Trung Quốc…” do tác giả Minh Võ sưu tầm từ tập I của quyển Hồ Chí Minh Biên Niên Tiểu Sử để dẫn giải chủ nghĩa cộng sản du nhập vào Việt Nam như thế nào trong tác phẩm Hồ Chí Minh, Nhận Định Tổng Hợp (trang 514). Xin chân thành tri ân công sưu tầm của tác giả Minh Võ. Nhờ biết được lời thú nhận “Tôi Là Một Người Trung Quốc…” của Hồ Chí Minh, cho nên chúng ta mới hiểu nguyên nhân vì sao Hồ Chí Minh cứ phê bình chỉ trích các nhà ái quốc Việt Nam như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Hoàng Hoa Thám, ngược lại ông để hết lời ca ngợi những ông tổ Cộng Sản như Lenin, Stalin, và Mao Trạch Đông. Ông nào có phải là người Việt Nam đâu! Ông thú nhận ông là một người Trung Quốc kia mà!
Xin bàn thêm về lời tự thú nhận “Tôi Là Một Người Trung Quốc v.v…”. Lời thú nhận đó là những dòng cuối trong bản báo cáo công tác đầu tiên gởi cho Đệ Tam Quốc Tế, tức là gởi cho KGB để cho Trùm Liên Xô Stalin đọc, cho nên Hồ Chí Minh không thể nào lếu láo được. Dùng bản Tuyên Ngôn Độc Lập Bịp Bợm đọc ở Quảng Trường Ba Đình để lường gạt Dân Tộc Việt Nam thì có thể được, chớ làm sao dám lếu láo giả dối với Stalin! Stalin là một người rất đa nghi. Xin nhớ lại câu chuyện Hồ Chí Minh xin Stalin ký vào một tờ tạp chí để làm kỷ niệm, rồi sau đó Stalin lại sai mật vụ lẻn vào phòng ông và đánh cắp lại tờ tạp chí có chữ ký đó! Và cũng xin nhắc lại chuyện Stalin ra lịnh cho sát thủ sang tận nước Mễ Tây Cơ để giết đối thủ Đệ Tứ Trotsky cho bằng được. Cho nên khi Hồ Chí Minh khai với Stalin rằng ông là một người Trung Quốc, thì đối với Stalin, ông phải “tinh thành” (chữ của Hồ Chí Minh) là người Trung Quốc, ông phải thôi làm người Việt Nam! Cuộc đời của Hồ Chí Minh đã gởi vào trong lời khai đó rồi, ông không thể dối trá với Stalin và KGB được, ông không thể nào làm người Việt Nam nữa được! Thương hại thay cho Hồ Chí Minh và cảm thương thay cho Dân Tộc Việt Nam nhỏ bé!
Nhưng chắc hẳn không phải vậy. Hồ Chí Minh là người cực kỳ tinh ranh xảo quyệt khó có ai bằng. Ông lại cực kỳ bí ẩn. Ông cũng là một điệp viên kiệt xuất. Lời báo cáo: “Tôi Là Một Người Trung Quốc Chứ Không Phải Là Người Việt Nam” hẳn cũng bí ẩn và kiệt xuất như ông, hẳn nó có công dụng đặc biệt nào đó mà người không ở trong nghề điệp viên như ông sẽ không bao giờ thấu hiểu. Tưởng dễ mà khó, cho nên xin dành câu giải đáp “Tại sao Hồ Chí Minh nói ông không phải là người Việt Nam?” cho những Sử Gia Tương Lai.
Miệng Lưỡi Trần Dân Tiên: “Cãi Chày Cãi Cối”
Cũng qua miệng lưỡi của Trần Dân Tiên, chúng ta mới biết tính gian xảo và ngụy biện của Hồ Chí Minh. Hãy mở sách Trần Dân Tiên, đọc kỹ hai trang liền nhau, trang 76 và trang 77, để xem Bác ta cãi chày cãi cối ra sao và “tán thưởng văn tài” của Bác. Đây trang 76:
“Trong thời kỳ đầu, phong trào lan rộng và ăn sâu… Trong những tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, nhân dân Việt Nam đã lật đổ chế độ cai trị của Pháp và phong kiến và lập chính quyền xô viết. Họ tuyên bố độc lập và thi hành tự do dân chủ. Những ủy ban xã, ủy ban huyện được dựng nên.”
Ở trang 76 đó, Hồ Chí Minh khoe là đã lập được những Làng Đỏ theo kiểu Xô Viết của Liên Xô, nhưng tiếp sang trang 77 của Trần Dân Tiên, Bác Hồ nhà ta lại “em chả em chả” không chịu nhận mình là cộng sản. Đây trang 77:
“Bọn đế quốc bịa đặt rằng những người cách mạng đó là tay sai của Đệ Tam Quốc Tế, của Liên Xô… Đế Quốc Anh cho rằng ông Nguyễn là tay sai của Liên Xô… Pháp, Nhật tuyên truyền ầm ĩ Việt Minh là cộng sản, nhận chỉ thị, tiền bạc của Mạc Tư Khoa… ”
Thật chẳng “oan ơi ông Địa” chút nào hết! Bọn đế quốc chẳng “bịa đặt, tuyên truyền” chút nào hết! Những “người cách mạng đó” (dám khoe là cách mạng!) đúng là tay sai của Đệ Tam Quốc Tế nhận chỉ thị và tiền bạc của Mạc Tư Khoa. Nói riêng về Hồ Chí Minh, lúc còn mang tên Nguyễn Ái Quốc, vào tháng 6 năm 1923, đã được bầu vào Ban Chỉ Đạo gồm 11 người của Quốc Tế Nông Dân tức là Krestintern, một bộ phận ngoại vi của Đệ Tam Quốc Tế Komintern. Đến khi mang tên Hồ Chí Minh thì được Lãnh Tụ Liên Xô Khrushchev trong quyển hồi ký của ông tán tụng như sau:
“Hồ Chí Minh là tông đồ nhiệt thành của tôn giáo Cộng Sản, là vị thánh của chủ nghĩa Cộng Sản, người nhiệt thành xã thân vì đại nghĩa… Các bạn phải tôn kính người này, hãy quỳ gối trước ông ấy để tỏ lòng biết ơn về những đóng góp vô vị lợi của ông ấy cho chính nghĩa Cộng Sản, đã dành cho nó tất cả sức lực và khả năng của mình.”
Lời Bàn: Nhân đây xin trích dẫn lời phê của tác giả Minh Võ về Hồ Chí Minh trong quyển Hồ Chí Minh, Nhận Định Tổng Hợp trang 615. Tác giả Minh Võ viết như sau:
“Trong đấu tranh, Hồ Chí Minh không bao giờ có thể bỏ quên các nguyên lý chủ nghĩa Lenin nên tuy ông sống và làm việc nhưng không phải ông, mà chính Lenin sống và hoạt động trong ông.”
Phối hợp lời xưng tụng của Khrushchev và lời phê của tác giả Minh Võ, ta có lời phát biểu hoàn chỉnh về con người thật Hồ Chí Minh:
“Hồ Chí Minh là vị thánh của chủ nghĩa Cộng Sản. Các đồng chí hãy quỳ gối dưới chân ông bởi ông chính là Lenin sống lại và hoạt động trong ông.” Khrushchev đã viết: “Các đồng chí hãy quỳ gối dưới chân Hồ Chí Minh” nhưng còn Dân Tộc Việt Nam thì sao, Dân Tộc hãy đứng thẳng dậy, nhìn kỹ những điều tệ hại Hồ Chí Minh đã gây cho Đất Nước, và viết lại Lịch Sử rằng không những Hồ Chí Minh là Lenin tái sinh, mà ông còn là những Thái Thú Tàu, những Toàn Quyền Pháp sống lại và hoạt động trong ông!
Bác Trả Lời Cho Xong Việc Trả Lời!
Đến bây giờ là Mùa Bịt Miệng 2007, chỉ còn lại nỗi niềm thương cảm cho Dân Tộc vì đã không biết lá bài tẩy của Hồ Chí Minh hồi “Kách Mệnh Mùa Thu 1945”! Cứ tưởng ông là người quốc gia yêu nước! Nhưng trong Dân Tộc hơn 20 triệu vào thuở ấy, hẳn có rất nhiều người biết Hồ Chí Minh là Cộng Sản, như Đức Cha Lê Hữu Từ. Trong lần viếng thăm Phát Diệm ngày 25 tháng 1 năm 1946 sau khi Đức Cha Lê được thụ phong Giám Mục, Hồ Chí Minh có mời Đức Cha giữ chức Cố Vấn Chính Phủ và có mạn đàm với Đức Cha. Trong câu chuyện riêng tư, Đức Cha Lê tỏ ra rất thẳng thắn:“Tôi và toàn dân Công giáo Phát Diệm đoàn kết và ủng hộ Cụ trong công cuộc kháng chiến chống Thực Dân Pháp, giành độc lập cho Tổ Quốc Việt Nam, nhưng nếu Cụ là cộng sản, thì tôi chống Cụ và chống Cụ từ phút này.”
Theo lời kể của ông Nguyễn Đức Hiệp, nguyên Chủ tịch Ủy ban Hành chính Kháng chiến Kim Sơn đăng trong Kỷ Yếu Phát Diệm 1891-1991 (trang 207), Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn điềm đạm lấp lửng:
“Thưa Cụ, toàn dân đoàn kết và đã đoàn kết chống thực dân Pháp giành độc lập cho Việt Nam thì thế nào cũng thắng. Đến khi toàn dân toàn thắng thì sẽ có phổ thông đầu phiếu, lúc đó toàn dân sẽ định đoạt, Cụ và tôi khỏi phải lo.”
Câu trả lời của Hồ Chí Minh hay tuyệt vời, tưởng như không có nhân vật thứ hai nào ngoài ông ra có thể ứng đáp hay đến thế. Ông không đá động gì đến cộng sản, ông lách qua đề tài cộng sản, ông đưa câu trả lời qua các đề tài nào là: toàn dân - đoàn kết - chống thực dân Pháp - giành độc lập - toàn thắng - phổ thông đầu phiếu - toàn dân định đoạt - tiến trình sẽ như vậy – cụ khỏi phải lo. Câu trả lời thật trọn vẹn đầy đủ. Nhưng tiếc thay! Đó chỉ là đầu môi chót lưỡi, ông trả lời cho xong việc trả lời! Ông đá một cú trả lời thật ngoạn mục lọt hẳn vào khuôn thành bên địch! Mãi về sau, ở Phát Diệm, Toà Giám Mục viết tắt là TGM, có kẻ chơi chữ đọc là Trại Giam Mới! Và không còn ai nhớ đến cái câu trả lời hay tuyệt vời ấy nữa, ngay cả người nói là Hồ Chí Minh! Hồ Chí Minh nói rồi cũng quên, cũng bằng như vất vào Sọt Rác Lịch Sử mà thôi. Ông chỉ làm “Kách Miệng”!
Những Lời Nói Dối Chính Trị
Lại thêm một lời phát biểu của Hồ Chí Minh về Đấu Tranh Giai Cấp (trích Người Việt Ở Pháp 1940-1954, tác giả sưu tầm Đặng Văn Long, trang 432). Tờ Thông Tin số 2 ngày 20-8-1947 của Phái Đoàn Trần Ngọc Danh, Trưởng Phái Đoàn thường trực của Chính Phủ Hồ Chí Minh ở Paris, đăng bài Hồ Chí Minh Trả Lời Báo Ngoại Quốc có đoạn như sau:
“Chúng tôi không chủ trương giai cấp đấu tranh vì rằng trong xã hội Việt Nam không có giai cấp tư bản. Hết thẩy các tầng lớp dân chúng nước Việt Nam đều bị kinh tế thực dân làm khốn khổ. Chúng tôi chủ trương làm cho tư bản Việt Nam phát triển, mà chỉ có thống nhất độc lập thì tư bản Việt Nam mới phát triển.”
“Đồng thời chúng tôi rất hoan nghênh tư bản Pháp và tư bản các nước khác thật thà cộng tác với chúng tôi, một là để kiến thiết nước Việt Nam sau khi bị chiến tranh tàn phá, hai là để điều hòa kinh tế thế giới và giữ gìn hòa bình.”
Lời Bàn: Năm 1930, khi phát động Phong Trào Xô Viết Nghệ Tĩnh , thì “Trí Phú Địa Hào Đào Tận GốcTrốc Tận Rễ”, tức là có đấu tranh giai cấp.
Vào năm 1947, khi trả lời báo ngoại quốc, thì “Chúng Tôi Không Chủ Trương Đấu Tranh Giai Cấp!” như trích dẫn bên trên.
Nhưng đến năm 1950, thì lại hô hào tiêu diệt “Trí Phú Địa Hào Và Tôn Giáo Lưu Manh”, tức là tiếp tục đấu tranh giai cấp mà còn leo thang thêm một bậc, đánh thêm một giai cấp nữa!
Hồ Chí Minh bản tánh lưu manh gian xảo, buổi sáng nói xuôi, buổi chiều nói ngược! Hồ Chí Minh cứ phát biểu thêm một lời, thì có thêm một lời dối trá!
Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu, một nhân chứng lịch sử thời Thanh Niên Tiền Phong 1945, tác giả quyển Phan Văn Hùm, Thân Thế & Sự Nghiệp, có kể thêm vài lời dối trá nổi tiếng của Hồ Chí Minh được sưu tầm ở Pháp như sau (trang 381):
“Khi Hồ Chí Minh tuyên bố ở Pháp năm 1946 nhân dịp bạn thân của (Tạ Thu) Thâu là Daniel Guérin hỏi về cái chết của Thâu: “Tạ Thu Thâu là một nhà ái quốc có tầm vóc. Chúng tôi khóc cái chết của ông”, ai ai cũng biết đó chỉ là một lời nói dối chính trị. Nhìn lại khoảng đường lịch sử vừa qua, những “lời nói dối chính trị” của Hồ Chí Minh nay được một số nhân sĩ Việt Nam gọi là khôi hài đen (black humour), nhất là hai lời tuyên bố đã được Trần Ngọc Danh ở Paris đã cho in trong tập “Hồ Chí Minh”, ấn hành tại Paris, tháng 5 năm 1947. Trần Ngọc Danh nhấn mạnh về hai lời tuyên bố của Hồ Chí Minh: lời thứ nhất đăng trên Journal de Genève: “Những bạn bè của chúng tôi không cần phải lo ngại là chủ nghĩa mác-xít sẽ du nhập vào đất nước chúng tôi”, lời thứ hai đăng trên báo Le Pays: “Những lí thuyết mác-xít không thể áp dụng được ở nước chúng tôi”.
Lại thêm một lời nói dối chính trị khác. Nhắc lại khi Hồ Chí Minh bị Trung Hoa Quốc Dân Đảng bắt (ngày 29-2-1942) vì tình nghi là cộng sản và gián điệp cho Nhật và bị giam trong hang đá Độc Đăng Sơn ở Liễu Châu, ông may mắn được Chủ tịch Trương Bội Công và cụ Nguyễn Hải Thần can thiệp với Chính Phủ Trung Hoa Dân Quốc để xin cứu ông. Được sự bảo đảm của các vị lãnh đạo VNCMĐMH, tướng Trương Phát Khuê thả ông ra. Để được lòng tín cẩn của tướng Khuê, và vì biết không thể chối quanh được, nên ông đã thú nhận và hứa (ngày 13-9-1943): “Tôi là một người cộng sản, nhưng điều tôi quan tâm hiện nay là độc lập và tự do cho nước Việt Nam. Tôi có một lời bảo đảm đặc biệt với ông rằng chủ nghĩa Cộng Sản sẽ chưa được thực hiện ở Việt Nam trong vòng 50 năm tới.”
Trong quyển Chiến Đấu, tác giả Phạm Quang Trình đã đọc qua hết 7.866 trang của bộ Hồ Chí Minh Toàn Tập và có nhận xét về “hai chữ Tự Do của Hồ Chí Minh” như sau (trang 297): “Lạ lùng là bài viết nào của ông Hồ cũng nói đến dân chủ, tự do, hạnh phúc… nhưng khi nhìn vào thực chất chế độ “xã hội chủ nghĩa miền Bắc” do ông và Đảng Cộng Sản thống trị, người ta sẽ thấy những gì Cộng Sản hay ông Hồ nói là phải hiểu ngược lại. Ngôn ngữ Cộng Sản và ngôn ngữ của ông Hồ là thế. Nó là kết tinh của những nghịch lý mà chỉ những người từng sống trong chế độ đó mới nhận ra dễ dàng.”
Cái nết đến chết vẫn còn, Hồ Chí Minh bản tánh dối trá, nên đến lúc sắp đi chầu các ông Tổ Cộng Sản, cũng đã để lại những lời dối trá. Đây lời dặn miệng cho các đàn em trong Bộ Chính Trị của ông, tác giả Hoàng Quốc Kỳ ghi chép trong quyển Ma Đầu Hồ Chí Minh (trang 184): “Khi Bác đi rồi, các chú nhớ cắt hộ khẩu, cắt sổ gạo cho Bác. Đám táng chỉ nên đơn sơ. Đừng bày vẽ linh đình. Các chú hỏa táng cho Bác. Đừng xây lăng tốn kém.”
“Đừng xây lăng tốn kém” Hồ Chí Minh đã dặn như vậy thì thôi! Đến bây giờ, ai tin Hồ Chí Minh được thì xin cứ tin!
Những Giọt Nước Mắt “Cá Sấu”
Câu chuyện “Nước Mắt Cá Sấu Của Bác” được tác giả Trần Đỗ Cung tường thuật trong tác phẩm của ông nhan đề Câu Chuyện Một Di Dân Tỵ Nạn Việt (trang 43) như sau:
“Khoảng trước cuối năm 1945, Hồ Chí Minh triệu tập cuộc họp liên hiệp ở chùa Bà Đá. Tôi được có mặt tối hôm ấy trong phái đoàn đại biểu sinh viên. Chúng tôi đến nơi được độ mười phút trước khi chủ tịch Hồ Chí Minh đến. Khi phái đoàn VNQDĐ đến với Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam thì Hồ Chí Minh vội vã chạy ra giang rộng hai tay ôm chặt lấy vai Nguyễn Hải Thần, hai mắt long lanh ướt lệ (nước mắt cá sấu)! Thế rồi Chính Phủ Liên Hiệp ra đời.”
Sau hội nghị Đà Lạt, rồi Fontainebleau dưới chiêu bài Liên Hiệp Pháp thì Thỏa Ước Sơ Bộ 6-3-1946 được ký kết nên Pháp được chính thức trở lại. Tác giả Trần Đỗ Cung lại được chọn cùng một số sinh viên trong Đại học xá cho đeo phù hiệu xuống Hải Phòng ngồi xe jeep đưa Tây vào Hà Nội. Ông viết tiếp rằng nước cờ tháu cáy của Hồ Chí Minh thành công. Tây trở lại thì Tầu phải cuốn gói về Tầu, VNQDĐ hỏng cẳng. Hồ Chí Minh chiếm được thế thượng phong mới lộ bộ mặt phản phúc và ác độc như sau (trang 43 sđd):
“Việt Minh bắt đầu thanh toán đối lập, triệt hạ thanh toán chiến khu Đại Việt và trường võ bị Đại Việt ở Yên Bái. Sau này mới biết rõ sự đánh phá trường võ bị Yên Bái tàn bạo như thể nào. Chúng vây hãm xung phong chém giết cực kỳ dã man, ném thây xuống sông nhuộm máu. Trong số bị giết có hai anh em Đặng Văn Bút, Đặng Văn Nghiên là bạn học ở Cao Đẳng Khoa Học, anh em Đỗ Quang Lung, Đỗ Quang Hiền là con cụ Đỗ Quang Giai. Còn có bạn Nguyễn Đình Tú bị chém nát lưng ném xuống sông nhưng may mắn giạt vào bờ sống lại.”
Món Quà Sinh Nhật Bằng Máu
Xin đừng tự trách chúng ta quá khắc khe đối với vị “Cha Già Dân Tộc” vì chúng ta cứ mãi bới lông tìm vết, cứ mãi tìm những lỗi lầm của “Bác”. Chúng ta nên nhớ những lời nói và việc làm của Hồ Chí Minh không phải là vô thưởng vô phạt. Vào ngày sinh nhật của Hồ Chí Minh, chúng ta có thể “Kệ Cha Bác!” như Ngục Sĩ Nguyễn Chí Thiện đã “Làm Thơ Chửi Bác”. Nhưng khổ thay, mỗi một lời nói của Hồ Chí Minh, mỗi một bài thơ của Hồ Chí Minh, mỗi một ngày sinh nhật của Hồ Chí Minh, ngay cả khi Hồ Chí Minh im lặng không nói một tiếng nào, là có thể giết người, giết cả chục, cả trăm, cả ngàn, cả vạn, cả trăm ngàn, cả triệu người, và lại có thể bán nước nữa! Trong lịch sử Việt Nam kể từ lập quốc, không một nhân vật nào như Hồ Chí Minh, ông đi đến đâu là Lưỡi Hái Tử Thần tiền hô hậu ủng đến đó!
Trong bài trả lời đài VNCR ngày 28-1-1996 (trích Tin Nhà số 23 tháng 3-1996, trang 18), Linh mục Chân Tín đã nói: “…vào ngày 19-5-1954, anh cả tôi đã chết trong một vụ nổ mìn của cộng sản, giết hại nhiều người vô tội trên chuyến tàu hàng Đà Nẵng-Huế”. Trong một số Tin Nhà khác (số 20, trang 25), Linh mục Chân Tín cho biết thêm rằng người anh đó là một nhân viên phục vụ trên chiếc tàu, và vài tháng sau, bà vợ của ông cũng lâm bệnh và ra đi vĩnh viễn để lại 8 đứa trẻ mồ côi cha lẫn mẹ, có 5 em còn quá nhỏ nên phải gởi vào Cô Nhi Viện Vincent de Paul trên Đà Lạt. Mỗi năm đến ngày 19 tháng 5, Đảng Cộng Sản Việt Nam tổ chức ngày sinh nhật Hồ Chí Minh rất long trọng, cho nên vụ nổ mìn sát hại người anh cả của linh mục Chân Tín và các người vô tội khác trên cùng chuyến tàu được Việt Cộng xem như là chiến công dâng lên Hồ Chí Minh làm Quà Sinh Nhật cho ông! Lấy sinh mạng người vô tội làm món quà sinh nhật! Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nhận món Quà Sinh Nhật Bằng Máu! Đúng là “Hồ Khát Máu”! Đúng là Tội Phạm Chiến Tranh có MỘT không HAI trong Lịch Sử Loài Người.
Sau đây là câu chuyện rất nhỏ về một người bạn của tác giả, vì là chuyện riêng tư rất nhỏ nhặt, nên xin được viết chuyện trong dấu ngoặc.
(Nhân đề tài Ngày Sinh Nhật Hồ Chí Minh, người viết mới nhớ lại một chuyện xưa trên nửa thế kỷ về một người bạn thân gặp nạn vì ngày sinh nhật ấy. Anh TMĐ tốt nghiệp trường Sư Phạm ở Sài Gòn và được về dạy ở tỉnh nhà. Tỉnh nhỏ Hà Tiên vui mừng được đón tiếp nhà giáo mới ra trường, yêu nghề, mến trẻ, lễ độ với tất cả mọi người, lại hiếu học và cầu tiến (Anh là độc giả có ghi tên mua dài hạn các tạp chí về khoa học từ Pháp gởi về như Naturalia, một đặc san có giá trị về khoa Vạn Vật Học. Nhờ anh, nên tôi mới biết đặc san Naturalia nầy, nên cũng đã sưu tầm như anh). Anh là nhà giáo trẻ, mẫu mực như các Bậc Thầy đáng tôn kính ngày xưa, được cả tỉnh Hà Tiên thương mến, cho nên khi anh bị bắt khoảng cuối thập niên 50, ai ai cũng bàng hoàng. Lý do anh bị bắt cũng không quan trọng gì! Anh được “người ta” mời một bữa cơm, rồi “người ta” tố cáo với Mật Vụ rằng anh ăn mừng Ngày Sinh Nhật của Bác Hồ. Đối với ai khác thì khổ lụy lắm, nhưng với anh TMĐ thì anh có thể biện hộ được. Anh tự biện hộ rất hùng hồn: “Người anh cả của anh, một ký giả tài ba chống Cộng Sản ngay từ lúc chủ nghĩa vừa mới du nhập vào nước, đã bị Việt Minh Cộng Sản sát hại bằng lựu đạn ở Dakao Sài Gòn năm 1948, ở ngay trước sân nhà anh. Người anh cả bị Cộng Sản giết như thế, gia đình anh là nạn nhân Cộng Sản, thì làm sao anh lại ăn mừng Ngày Sinh Nhật của Hồ Chí Minh cho được”. Anh được cứu xét nhanh chóng và được trả về lớp học với các học sinh đang chờ đợi thầy về. Đến bây giờ là Mùa Bịt Miệng 2007, nhân động não để viết Cuộc Chiến Tranh Của Hồ Chí Minh Đánh Dân Tộc, người viết mới nhớ lại Chuyện Bịt Miệng 1948 bằng cách giết người anh ký giả bằng lựu đạn và vu cáo cho người em vào tù. Bất cứ việc gì phản dân hại nước mà có lợi cho Đảng, Việt Cộng cũng có thể làm được!)
Bài Thơ Giết Người Tết Mậu Thân
Sau đây là Bài Thơ Giết Người Tết Mậu Thân với tựa đề Toàn Thắng Ắt Về Ta.
Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng trận tin vui khắp mọi nhà
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta
Theo tác giả Minh Võ, bài thơ này không phải là một tác phẩm văn học, không thể gọi được là thơ, tuy rằng Hồ Chí Minh đã qua 3 tháng nghiền ngẫm, và bài thơ được Cộng Sản nâng cấp là bài Hịch Lịch Sử! Làm xong bài thơ, thâu thanh vào băng để lại Phủ Chủ Tịch, thanh thản lên chuyên cơ bay sang Bắc Kinh tịnh dưỡng, để rồi đến đêm giao thừa Tết Mậu Thân, Hồ Chí Minh ở Bắc Kinh thưởng thức bài thơ của mình qua đài Tiếng Nói Việt Nam trong khi máu lửa ngập tràn miền đất Việt phương Nam, mặc dầu hai bên Quốc Cộng đồng ý hưu chiến trong ngày Tết. Nữ sĩ Nhã Ca viết lên tiếng khóc than của cố đô Huế trong quyển Giải Khăn Sô Cho Huế. Bây giờ cũng xin mượn Giải Khăn Sô ấy để choàng cho cả Dân Tộc trong ngày Tết Mậu Thân 1968.
Đến bây giờ xét lại toàn bộ Cuộc Chiến Tranh Của Hồ Chí Minh Đánh Dân Tộc, câu hỏi đặt ra là Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản có chọn đúng ngày để đánh Dân Tộc trong ngày Tết Mậu Thân 1968 hay không? Xét về mặt chiến pháp theo đúng binh thư đồ trận thì Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản đã chọn thật đúng ngày! Nhất là Đảng đã âm mưu cho phổ biến một bài nghiên cứu về Thiên Văn Học xác định rằng ngày Tết Âm Lịch phải điều chỉnh lại sớm hơn một ngày mới đúng. Đảng đã sửa lại lịch theo mưu mô gian xảo chỉ để cho Bộ Đội ăn Tết trước một ngày trước khi ra quân! Rồi Đảng lại đề nghị hưu chiến trong những ngày Tết! Ngày 18-11-1967, đài phát thanh Giải Phóng của Việt Cộng cho đọc bản thông cáo của Đoàn Chủ Tịch MTDTGPMNVN về việc hưu chiến 7 ngày nhân dịp Tết Mậu Thân từ 27-1 đến 3-2-1968. Bản thông cáo trên còn nói rõ “Các lực lượng võ trang của MTGPMNVN có nhiệm vụ bảo vệ để đồng bào được ăn Tết bình yên vui vẻ, cũng như binh lính và nhân viên của ngụy quân ngụy quyền Sài Gòn được trở về xã xum hợp với gia đình, lễ gia tiên, và thăm bà con họ hàng…” Tương quan của Đảng Cộng Sản đối với Dân Tộc là tương quan sống chết không đội trời chung. Đảng đã xem Dân Tộc như là kẻ thù cần phải chiến thắng bằng bất cứ giá nào. Đảng phải toàn thắng Dân Tộc thì mới có thể chiếm trọn cả Đất Nước làm chiến lợi phẩm riêng cho Đảng.
Thêm vào đó là tất cả trữ kim và trương mục tiết kiệm trong tất cả ngân hàng. Tổng Giám Đốc của Đại Á Ngân Hàng là ông Huỳnh Văn Lang, tác giả quyển Đã Hơn 30 Năm Rồi (V.N. Du Ký 2006), đã tiết lộ chuyện xưa (trang 245): “Đại Á Ngân Hàng, trụ sở trung ương ở đường Nguyễn Công Trứ có 800 hộp sắt (safe) để khách hàng thuê cất giữ vàng bạc, đồ trang sức quí giá cũng như những giấy tờ quan trọng của gia đình. Đầu tháng năm 1975, có 5 xe camion của CS gởi đến, cho lệnh giám đốc Võ Văn Hải mở hầm và trao chìa khóa, để rồi năm sáu cán bộ tràn vào tha hồ hốt bỏ bao, không kiểm điểm, không một tờ giấy ký nhận và mang đi, cũng không biết mang đi đâu. Chi nhánh ở Chợ Lớn cũng bị một số phận như thế.”
Đối với ngân hàng của Pháp là BNP (Banque Nationale de Paris ở góc đường Nguyễn Công Trứ - Tôn Thất Đạm) thì Đảng hành sự có vẻ thanh lịch hơn như chuyện kể anh LCL, người chủ thuê của một “hộp an toàn” (Trích Trường Trung Học Petrus Ký của giáo sư tiến sĩ Nguyễn Thanh Liêm, trang 153). Anh LCL thuật rằng vào tháng 10-1975, khi anh nhận được giấy mời đến ngân hàng “giải quyết” “hộp an toàn”, anh rất mừng nghĩ rằng vì chờ đợi quá lâu, nay mới được rút vàng, hột xoàn, nữ trang của bà xã, và bằng khoán đất đai nhà cửa, v.vân… Anh nói tiếp: “Thật không ngờ, khi đến ngân hàng, sau khi điền giấy tờ, hộp an toàn lấy ra và mở trước mặt “cán bộ”. Cán bộ lấy bao nhiêu lượng vàng của tôi bỏ chung với đống vàng đã có sẵn, và nữ trang bỏ chung với nữ trang, hột xoàn bỏ chung với ống hột xoàn. Cán bộ tuyên bố “vàng và đá quí là chiến lợi phẩm của Nhà Nước”. Tôi xây xẩm mặt mày và đứng chết trân.”
Không phải một mình anh LCL xây xẩm mặt mày và chết trân mà là cả miền Nam, người giàu cũng như người nghèo, ai cũng xây xẩm mặt mày và chết trân cả. Ngay cả những người tham gia Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam như bác sĩ Dương Quỳnh Hoa hay kỹ sư Hồ Văn Bửu cũng xây xẩm mặt mày và chết trân vì không ngờ là đã tiếp tay giúp cho kẻ cướp Cộng Sản vào nhà miền Nam. Anh LCL, người cựu học sinh trường Petrus Ký đó, rất am hiểu tình hình, giải thích rằng vì Đảng muốn nắm hết huyết mạch miền Nam cho nên ra lịnh (trang 152 sđd): “Gần 40 ngân hàng phải nạp tích sản, Đảng gom hết giấy 500$ của các ngân hàng và bí mật tung ra, một phần lớn khắp vùng đồng bằng sông Cửu Long để thu mua lúa gạo, một phần nhỏ ở chợ trời Sài Gòn để gom mua hàng hóa, và chở tất cả về Bắc bằng tàu sung công và xe bộ đội. Khi giấy 500$ đã nằm trọn trong tay dân chúng ở nông thôn cũng như ở thành phố, đầu tháng 9-1975, chánh quyền tuyên bố “hủy”giấy bạc do ngân hàng quốc gia phát hành. Không biết bao người đã nghẹt thở đứng tim.”
Đảng thỏa mãn lòng tham không đáy bằng nhiều chính sách tàn bạo như cải tạo công thương nghiệp để cướp hảng xưởng và cơ sở thương mại, đuổi dân đi vượt biên và đưa dân đi vùng kinh tế mới để cướp nhà, đổi tiền để cướp tiền, bao vây chợ để cướp hàng bày bán, cho vượt biên bán chánh thức để đổi mạng lấy vàng. Giải phóng đâu không thấy! Chỉ thấy toàn là những hành động thổ phỉ: Vào Vơ Vét Vui Vẻ Về!
Đến bây giờ là Mùa Bịt Miệng 2007, Đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nguyên hình là Đảng Cướp, bởi lẽ nếu thật vì Lý Tưởng Cao Cả Khởi Nghĩa để Giải Phóng Miền Nam, thì Đảng đã không xử dụng những phương tiện hèn hạ độc ác để đánh Dân Tộc. Việc Cộng Sản chọn đúng Ngày Tết Mậu Thân 1968, ngày thiêng liêng nhất trong năm để nổ súng bắn giết Dân Tộc, là hành vi vô văn hóa đáng khinh bỉ nhất trong 4000 năm văn hiến. Còn Bài Thơ Giết Người Tết Mậu Thân nhan đề Toàn Thắng Ắt Về Ta của Hồ Chí Minh chính là lịnh của Hồ Tặc cho phép lâu la của mình xông vào nhà khổ chủ miền Nam để “chôm chĩa”. Một Bài Thơ Ô Nhục!
Sự Im Lặng Giết Người
Ngày sinh nhật của Hồ Chí Minh giết người! Bài thơ Tết Mậu Thân của Hồ Chí Minh giết người!, như trên đã dẫn giải. Nhưng thật lạ lùng, sự im lặng của Hồ Chí Minh lại cũng có thể giết được người! Xin lặp lại, khi Hồ Chí Minh im lặng không nói tiếng nào, ông cũng giết người! Câu chuyện sau đây do nhà Tranh Đấu Dân Chủ Nhân Quyền ở Paris là Bùi Tín tường thuật trong quyển Mặt Thật (trang 37). Đây sự im lặng giết người của Hồ Chí Minh, không phải giết một người, mà cả trăm ngàn người! Vào thời điểm Cải Cách Ruộng Đất ở miền Bắc, ngay lúc khởi đầu:
“Khi đội phát động đến vùng đồn điền Đồng Bẩm sát ngoại ô thành phố Thái Nguyên làm thí điểm phát động nông dân, chủ đồn điền là bà Nguyễn Thị Năm. Bà từng ủng hộ các chiến sĩ Cộng Sản từ thời bí mật, từ những năm 1937-1938… Chính các ông Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt đã được bà che chở nuôi dưỡng. Hai con trai của bà hoạt động Việt Minh từ thời bí mật, đi bộ đội giải phóng và đến năm 1954, một anh tên Nguyễn Công là Chính Ủy trung đoàn, một anh tên Nguyễn Hanh là Đại Đội phó Đại đội thông tin. Cố vấn Trung Quốc nhận bừa rằng đây là mụ địa chủ ác bá, có nghĩa là cần lấy đầu. Một số nông dân chất phát ngây thơ, kể rằng bà Năm rất tốt, nhân từ, hay đi chùa, làm việc thiện, có nhiều cán bộ chiến sỹ là con nuôi của bà, bà có công với kháng chiến, nên xếp là Địa Chủ Kháng Chiến. Những người ấy bị Cố Vấn Tàu và ông Đội Trưởng quê ở Nghệ An kết tội là tay sai, định bênh che, chạy tội cho địa chủ. Không khí ngột ngạt bắt đầu, sau bắt rễ xâu chuỗi, đến bước đấu tranh trực diện của nông dân, kể tội và luận tội về kinh tế và chính trị, chuẩn bị cho tòa án nhân dân với màn xử bắn.”
Hoàng Quốc Việt, người từng chịu ơn bà Nguyễn Thị Năm che chở và nuôi dưỡng, chạy đến báo cáo với Hồ Chí Minh để xin cứu bà. Hồ Chí Minh chăm chú nghe rồi nói: “Không ổn! Không thể mở đầu chiến dịch bằng cách nổ súng vào một phụ nữ và lại là người từng nuôi cán bộ Cộng Sản và mẹ một chính ủy trung đoàn Quân Đội Nhân Dân đang tại chức.” Hồ Chí Minh hẹn sẽ can thiệp, sẽ báo Trường Chinh về việc hệ trọng và cấp bách đó, tức là việc cứu bà Nguyễn Thị Năm Cát Hanh Long. Lúc đó Trường Chinh là Tổng Bí Thư Đảng và đảm trách Trưởng Ban chỉ đạo Cải Cách Ruộng Đất. Nhưng rồi Hồ Chí Minh im lặng! Và bà Nguyễn Thị Năm bị giết!
Mãi đến năm 1987, Hoàng Quốc Việt, người Cộng Sản muốn cứu bà Năm mà không được, tâm sự và than với Bùi Tín rằng đến Bác cũng biết giết bà Năm là không đúng, nhưng Bác cũng không dám nói với “họ”! Xin mở ngoặc: “họ” là những Cố Vấn Trung Quốc sang Việt Nam để chỉ đạo phong trào Cải Cách Ruộng Đất. Và cũng xin đặt câu hỏi: “Vì sao Hồ Chí Minh lại sợ các Cố Vấn Trung Quốc đến nỗi không dám lên tiếng để cứu bà Năm Cát Hanh Long và để cứu mấy trăm ngàn người khác nữa bị đấu tố dã man trong phong trào Cải Cách Ruộng Đất sau đó?” Biết là sai lầm, sợ Cố Vấn Trung Quốc nên không dám can thiệp, giữ im lặng để cho chết oan biết bao nhiêu người, đưa Trường Chinh làm vật tế thần để chịu trách nhiệm, rồi đến Đợt Sửa Sai đưa Võ Nguyên Giáp ra xin Dân tộc xóa tội và tha lỗi. Hồ Chí Minh sợ các Cố Vấn Trung Quốc, để cho “họ” tàn sát đồng bào như vậy, nhưng cứ luôn hô hào “Giải Phóng Dân Tộc, Đánh Mỹ Cứu Nước”. Đúng là “Gái Đĩ Già Mồm”. Chân tướng của Hồ Chí Minh hèn mạt, đê tiện, và độc ác như vậy thì làm gì có tư tưởng cao siêu mà luận bàn!
Đi Tìm “Cái Gọi Là Tư Tưởng Hồ Chí Minh”
Về Tư Tưởng Hồ Chí Minh, trong quyển Viết Cho Mẹ Và Quốc Hội, tác giả Nguyễn Văn Trấn là nhân chứng nghe Hồ Chí Minh nói và ghi lại như sau:
“Không, tôi không có tư tưởng gì ngoài tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lê. Tôi chỉ có phương pháp giải quyết thỏa đáng từng vấn đề của ta. Như tôi thường nói“Lạt Mềm Buộc Chặt”, đó là phương pháp cột cái gì đó của tôi. Mà cho đến phương pháp như vậy thì cũng có sự chỉ biểu của phương pháp biện chứng. Chớ còn tư tưởng là quan niệm về vũ trụ, về thế giới và về xã hội con người, thì tôi là học trò của Mác-Ănghen-Lênin, chớ làm gì có tư tưởng ngoài triết học Mác.”
Tác giả Jean Lacouture cũng viết như vậy. Ông thuật chuyện khi Hồ Chí Minh bị ký giả Tây phương chất vấn về lý do tại sao không viết sách báo như Mao Trạch Đông thì được Hồ Chí Minh trả lời: “Không còn gì để viết vì ông Mao đã viết cả rồi.”
Đi tìm Tư Tưởng Hồ Chí Minh qua lời nói và việc làm của ông như trên đã dẫn giải, chúng ta vô cùng thất vọng. Hồ Chí Minh không phải là Cha Già Dân Tộc, không phải là Bác Hồ Vĩ Đại, không phải là Người Con Yêu Quý Nhất Của Dân Tộc… mà lại hiện nguyên hình là một người Việt Nam Tồi Tệ gian xảo dối trá suốt cả cuộc đời, khinh mạn Đức Phật, hỗn láo với Đức Trần Hưng Đạo Vương, không chân thành với những vị tu hành như Đức Cha Lê Hữu Từ, một kẻ hiếu sát đã mang tòa án nhân dân, đấu tố, chiến trường, gươm giáo súng đạn đặt giữa lòng Dân Tộc để gây cảnh nồi da xáo thịt, một kẻ mang ngôn ngữ côn đồ hỗn láo vô giáo dục dạy cho trẻ con năm sáu tuổi gọi những người cao niên là “con nầy thằng kia”, một kẻ Đại Phản Quốc làm mất đất mất biển mất hải đảo của Tổ Quốc, một kẻ vì lãnh lương của Liên Xô mà tự thú nhận rằng mình là “người Trung Quốc mang tên là Lý Thụy chớ không phải Nguyễn Ái Quốc”…, Hồ Chí Minh chính là MỐI Ô NHỤC VĨ ĐẠI của Dân Tộc Việt Nam từ cổ chí kim! Có tư tưởng cao siêu gì mà phải luận bàn!
Chính Hồ Chí Minh cũng nói rằng ông “không có tư tưởng gì ngoài chủ nghĩa Mác-Lê”. Nhưng sau khi các nước Đông Âu và Liên xô bị sụp đổ, tượng Lenin bị giật sập, và chủ nghĩa Mác-Lê bị chính người Nga quăng vào Sọt Rác Lịch Sử, Đảng Cộng Sản Việt Nam bỗng mất đi nước Đàn Anh Đỡ Đầu và cơ sở tư tưởng để bám víu. Trong cơn bối rối, Đảng họp Đại Hội VII (tháng 6 năm 1991) và quyết định “kiên trì và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư Tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trò lãnh đạo xã hội…. lấy Tư Tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy dân chủ tập trung làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.”
Đó là chuyện Đại Hội VII năm 1991, theo tác giả Nguyễn Ngọc Nghĩa trong bài Phê Bình Bản Dự Thảo Sửa Đổi Hiến Pháp Của Cộng Sản Việt Nam (Làng Văn, số 90, tháng 2 năm 1992, trang 11): “Điểm đáng chú ý là suốt trong 3 bản hiến pháp 1946, 1959 và 1980, CSVN tuyệt nhiên không hề đá động tới “tư tưởng Hồ Chí Minh”, ngay cả lúc Hồ còn sống (1946, 1959) hay đã chết (1980). Không phải đợi Hồ nằm phơi thây ở Ba Đình hơn hai mươi năm sau rồi mấy triệu đảng viên CSVN mới khám phá rằng “Bác vô vàng kính yêu” của họ… có tư tưởng.”
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Nghĩa, thì Đảng đã nặn ra “Cái Gọi Là Tư Tưởng Hồ Chí Minh” để ghép nối vào phía sau chủ nghĩa Mác-Lênin vào lúc mà chủ nghĩa tai hại nầy bị xem như một thứ vi khuẩn đục khoét khống chế phá hoại cân não nhân loại. Cuộc Cách Mạng Tháng 10 của Nga đã bị chính người Nga chế diễu phỉ nhổ và ném vào Sọt Rác Lịch Sử. Đảng Cộng Sản Việt Nam không phải là không biết điều đó, nhưng họ không còn thứ gì khác để bám víu, đành phải gượng gạo đem cuộc Cách Mạng Mùa Thu 1945 ra thay thế và bịa ra “Tư Tưởng Hồ Chí Minh” để vá víu vào lỗ hổng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Giáo sư Tôn Thất Thiện, trong bài Luận Bàn Về “Tư Tưởng Hồ Chí Minh” (viết ở Ottawa, Gia Nã Đại, ngày 1-6-1996 và được đăng trọn trong Tin Nhà số 27 tháng 4 năm 1997), cũng cho rằng Quyết Định của Đại Hội VII của Đảng là mệnh lệnh, cho nên: “Các cán bộ cao cấp, vì tinh thần kỷ luật hoặc vì muốn lấy điểm, đều đổ xô vào việc mổ xẻ, giải thích tư tưởng của Bác. Từ tháng 6 năm 1991 đến tháng 8 năm 1994 trong Tạp Chí Cộng Sản, tạp chí tư tưởng của Đảng, có 27 bài được đăng về vấn đề này.”
Giáo sư Tôn Thất Thiện liệt kê một danh sách dài những cán bộ cao cấp tuân hành lịnh Đảng trong chiến dịch chế tác tư tưởng Hồ Chí Minh, cả những đảng viên lão thành về hưu đã lâu cũng được Đảng động viên để viết về Tư Tưởng Hồ Chí Minh. Giáo sư Tôn Thất Thiện viết:
“Điều nổi bật khi ta đọc những tác phẩm trên rõ ràng là ở Việt Nam mọi người đều mù tịt về “tư tưởng Hồ Chí Minh”. Không ai trả lời dứt khoát được câu hỏi “tư tưởng Hồ Chí Minh” là gì? Những giải thích trong nhóm lãnh đạo, các bài nghiên cứu của những lý thuyết gia, những bài bình luận của các cơ quan tuyên truyền mơ hồ, lộn xộn, thiếu chính xác về sự kiện, và không vững chắc về lý luận, trình bày không có phương pháp, rất khác biệt nhau hay mâu thuẫn nhau. Có bài thiếu đứng đắn, có tính cách nói đại, nói bừa, hết sức vớ vẩn.”
Tìm Lá Diêu Bông Hay Mò Kim Đáy Biển
Chúng ta có câu mò kim đáy biển (sau lại có thêm đề tài Tìm Lá Diêu Bông) để ví von với một việc làm vô cùng khó khăn hầu như không thể thực hiện được. Khi Đảng ra lịnh cho các đảng viên ưu tú viết về “Tư Tưởng Hồ Chí Minh”, xin Dân Tộc hãy an tọa trên bờ nhìn xem họ hì hục lặn xuống đáy biển để mò tìm và vớt lên được món gì! Tham khảo bài “Luận Bàn Về Tư Tưởng Hồ Chí Minh” của giáo sư Tôn Thất Thiện, chúng ta thấy họ tìm được những “món” mà Đảng đặt tên là “Tư Tưởng Hồ Chí Minh” như sau:
Đào Duy Tùng (Ban Bí Thư Đảng phụ trách văn hóa tư tưởng) viết trong Tạp Chí Cộng Sản, 5/1991: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa mác-lênin vào thực tiển Việt Nam… Nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh là toàn bộ cuộc đời cách mạng của Bác.”
Lời Bàn: Chủ nghĩa mác-lênin đã bị chính dân Nga vất vào Sọt Rác Lịch sử rồi, thì làm sao Tư Tưởng Hồ Chí Minh là phó sản tùy thuộc vào chủ nghĩa đó, dầu cho sáng tạo lại tài ba cách mấy đi nữa, tránh sao cho khỏi bị cùng chung một số phận!
Hà Huy Giáp trong Tạp Chí Cộng Sản, 5/1992 viết: “Những suy nghĩ, những việc làm của Bác để đưa chủ nghĩa mác-lênin vào Việt Nam, làm cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác… tạo nên tư tưởng Hồ Chí Minh.”
Lời Bàn: Lại cũng dùng vật liệu đã bị phế thải là chủ nghĩa mác-lênin! Nói tới thắng lợi tức là những lợi lộc hàng tỷ USD của các đảng viên cao cấp trong Bộ Chính Trị còn Dân Tộc trở lại kiếp sống nô lệ, nghèo đói, mất tự do, còn tệ hại hơn thời Pháp thuộc!
Hoàng Tùng (Tổng biên tập nhật báo Nhân Dân) trong Tạp Chí Cộng Sản, 4/1992 viết: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là con đường cách mạng, hệ tư tưởng chỉ đạo của dân tộc và nhân dân Việt Nam. Thế giới quan của hệ thống tư tưởng này là chủ nghĩa mác, chủ nghĩa lênin, kết hợp với tư tưởng chính trị và văn hóa truyền thống của người Việt Nam.”
Lời Bàn: Thì cũng y như Đào Duy Tùng và Hà Huy Giáp, thì cũng chủ nghĩa mác, chủ nghĩa lênin là sản phẩm đã bị thế thải rồi! Lại còn dám nói đến văn hóa truyền thống của người Việt Nam! Một chế độ tiêu diệt văn hóa truyền thống, người đi làm thủy lợi thì bảo“Thằng Trời đứng ra một bên - Để cho thủy lợi đứng lên thay trời!”, trẻ con năm sáu tuổi thì gọi những lão ông lão bà là “con nầy thằng kia” để chứng tỏ mình thuộc giai cấp vô sản! Văn hóa truyền thống còn đâu! Hồ Chí Minh đã phá nát cả rồi!
Nguyễn Văn Linh phát biểu ở Đại Hội VII: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa mác-lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta…”
Lời Bàn: Thì cũng lại dùng vật liệu phế thải! Lại cũng chủ nghĩa mác-lênin!
Đỗ Mười, đến 1995, cũng bổn cũ soạn lại: “Chủ nghĩa mác-lê là cơ sở chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh.”
Lời Bàn: Chúng ta khỏi cần bàn!
Đại Tướng Võ Nguyên Giáp, quyển Tư tưởng Hồ Chí Minh, nxb Sự Thật, Hà Nội, 1993, được giáo sư Tôn Thất Thiện trích khá dài, nhưng chỉ là những khẩu hiệu thật kêu mà rỗng bộng. Nhưng có một ý thật lạ: “Phải kiên quyết ngăn chận bệnh sida tư tưởng! Phương thuốc thần diệu để ngăn chận căn bệnh đó là tư tưởng Hồ Chí Minh.”
Lời Bàn: Kính thưa Đại Tướng Người Hùng Điện Biên Phủ, kể từ 1945 Dân Tộc đã quá no khẩu hiệu nhưng rất đói và khao khát những kế hoạch ích nước lợi dân chân thật không lừa phĩnh! Khi Tĩnh Cơn Say Đảng và Tàn Giấc Mê Hồ, bừng mắt dậy bỗng thấy Việt Nam tụt xuống tận cùng vực sâu nghèo đói của loài người, chỉ còn hơn một vài nước Phi Châu! Đại Tướng bảo phải kiên quyết ngăn chận bệnh sida tư tưởng bằng tư tưởng Hồ Chí Minh! Nhưng Đại Tướng không bảo bệnh sida tư tưởng là bệnh gì và phương cách làm sao để nặn ra Tư Tưởng Hồ Chí Minh! Nếu thật sự có cái gọi là Tư Tưởng Hồ Chí Minh, và Đảng xử dụng hệ tư tưởng đó để đánh phá Dân Tộc thì Tư Tưởng Hồ Chí Minh có phải là Sida Tư Tưởng hay không, thưa Đại Tướng?!
Giáo sư Tôn Thất Thiện kết luận như sau:
“Tư Tưởng Hồ Chí Minh là một từ ngữ vô nghĩa vì nó không có nội dung. Nó không chỉ định một hiện thực nào cả. Nó chỉ được tạo một cách dối trá để lường gạt hàng ngũ Đảng Cộng Sản Việt Nam, dân chúng Việt Nam, và dư luận ngoại quốc.”
Xin nhắc lại chuyện vui Mò kim Đáy Biển, câu chuyện chưa chấm dứt, xin được tiếp tục. Khi Đảng bảo phải mò cho được cây kim quý đó, thì đảng viên phải nhảy xuống biển, lặn xuống cho thật sâu, và cố gắng mò cho ra cây kim của Đảng. Có người mò được vỏ sò, có người vớt lên được một mảnh san hô, có người tìm ra một đồng tiền cổ của một chiếc tàu bị đắm ngàn năm trước, có vị lấy lên được một mảnh xương hóa thạch. Như chuyện đi tìm Lá Diêu Bông trong thi văn, chuyện Mò Kim Đáy Biển của Đảng cũng chỉ hoài công vô vọng! Hồ Chí Minh làm gì có Tư Tưởng mà đi tìm!
Kế Hoạch Quy Mô “THÁO GỠ” Của Cựu Hoàng
Dân Tộc đứng trên bờ nhìn mãi việc Đảng Mò Kim Đáy Biển rồi cũng chán, xin mời sang Paris Kinh Đô Ánh Sáng để tham dự buổi nói chuyện thân mật giữa Võ Sư Vovinam Trần Huy Quyền và Cựu Hoàng Bảo Đại. Thời điểm tháng 10 năm 1991. Võ Sư Trần Huy Quyền, tức ký giả Chu Văn, từ Melbourne ở Úc Châu sang Paris tìm gặp Cựu Hoàng và thực hiện được một cuộc phỏng vấn để đời (Trích bài Cựu Hoàng Bảo Đại, tuần báo Việt Nam Thời Nay, ngày 17-10-1991). Nói là phỏng vấn cho có vẻ quan trọng, nhưng qua cách tường thuật của ký giả Chu Văn, chúng ta như được dự thính một buổi trà đàm thân mật giữa công dân Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy và công dân Trần Huy Quyền. Qua câu chuyện trao đổi, dần dà thân tình chợt nảy sinh, công dân Huy Quyền đặt một câu hỏi có vẻ hóm hỉnh, một câu hỏi thuộc loại “Này Bạn, nếu Trời cho Bạn trúng số độc đắc thì Bạn sẽ làm gì?” Câu hỏi của công dân Huy Quyền như sau: “Nếu được nhân dân mời về thì nhà vua sẽ về với danh xưng là Hoàng đế, Quốc trưởng, hay Tổng thống?” Công dân Vĩnh Thụy lắc đầu đáp lại ngay, và đây cũng là Những Lời Vàng Ngọc Của Cựu Hoàng:
“Nghĩ như vậy là bậy. Bởi vì vấn đề bây giờ không phải là vậy. Vấn đề bây giờ là một đề án, một kế hoạch quy mô tháo gỡ hết những rối ren do biết bao sai lầm trong quá khứ để lại… Vấn đề bây giờ là làm sao đáp ứng thực sự nguyện vọng của dân. Từ 1945 tới nay, mọi quyết định quan trọng thay đổi trên đất nước Việt Nam đều là sự áp đặt, sự ép buộc ngoài ý dân. Những gì đã xẩy ra đều trái với ý muốn của toàn dân. Bây giờ vấn đề phải làm sao cho thật ý dân. Ý dân là ý trời. Trái ý dân thì trước sau gì cũng thất bại. Còn vua, tổng thống hay chủ tịch thì đã có cả rồi đó. Vấn đề bây giờ là làm sao cho mọi người có cơm ăn việc làm không bị đè nén, đe dọa, áp bức rồi hiệp sức với nhau xây dựng lại đất nước và làm cho xã hội hết rối ren hỗn loạn… Có độc lập, có thống nhất mà nhân dân chia rẽ, đói khổ thì cũng như không có gì cả! Thời bây giờ không thể đẩy thành phần này chống đối thành phần khác để mà cai trị…”
Thật là những Lời Vàng Ngọc, những Lời Tâm Huyết của Cựu Hoàng! Cựu Hoàng đề cao ý dân là ý trời. Cựu Hoàng nhận xét rằng Dân Tộc chưa xử dụng được Quyền Dân Tộc Tự Quyết. Và nhất là Cựu Hoàng cho rằng phải có một kế hoạch quy mô THÁO GỠ hết những rối ren gây ra bởi những sai lầm trong quá khứ. Trong quá khứ có quá nhiều sai lầm, không phải từ 1945 khi Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Độc Lập Dối Trá ở Hà Nội, mà ngay từ năm 1924, khi Hồ Chí Minh trở thành Quốc Tế Ủy của Đệ Tam Quốc Tế (tức là Kominternchik của Komintern), ngay từ năm 1925, khi Hồ Chí Minh bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp, và về sau, khi đoạt được chính quyền thì xây dựng Chế Độ Thực Dân Bản Địa (Autocolonialisme), một chế độ tham tàn và ác độc hơn Thực Dân Pháp để cai trị đồng bào của mình. Cựu Hoàng dùng từ THÁO GỠ thật rất chính xác.
Cựu Hoàng chính là nhân vật lịch sử có uy tín nhất trong toàn Dân Tộc nói đến chuyện THÁO GỠ, bởi lẽ ngày 25 tháng 8 năm 1945, chính Cựu Hoàng đã vì quý trọng Dân Quyền, vì có tư tưởng Dân Vi Quý, mà đã tự THÁO GỠ nền Quân Chủ của Triều Đại Nguyễn Phúc để được làm công dân tự do của một nước độc lập và dân chủ.
Xin nhắc lại chuyện xưa, ngày 25 tháng 8 năm 1945, khi Cựu Hoàng ban Chiếu Thoái Vị, tức là những Lời Tâm Huyết trong viễn kiến cứu Dân Tộc thoát khỏi cơn binh lửa, nhưng Hồ Chí Minh và Đảng đã không học “Bài Học Đoàn Kết Để Xây Dựng” tức Điều 2 trong Chiếu Thoái Vị của Cựu Hoàng. Chính vì thế chiến tranh đã tàn phá đất nước triền miên. Đến bây giờ là Mùa Bịt Miệng 2007, Đảng muốn bịt miệng Dân Tộc nhưng nào có được! Dân Tộc đã biết Hồ Chí Minh không có Tư Tưởng gì cả! Hồ Chí Minh đã chết, hãy để ông yên nghỉ! Đảng cố nặn ra cái gọi là Tư Tưởng Hồ Chí Minh để làm gì! Chỉ để cho nữ sĩ Dương Thu Hương có dịp gọi Đảng là Bọn Dâm Thi, tức là bọn mắc chứng bịnh Thác Loạn Tình Dục chờ đêm xuống bốc mả những người đẹp chết vừa mới chôn để làm tình với tử thi chưa sình thối! Bây giờ, Dân Tộc xin Đảng hãy suy ngẫm ý tưởng THÁO GỠ của Cựu Hoàng! Hãy kính cẩn học Bài Học THÁO GỠ của Cựu Hoàng! Hãy THÁO GỠ và vất vào Sọt Rác Lịch Sử những thứ gì làm cản bước tiến của Dân Tộc: Tư Tưởng Hồ Chí Minh là một! Có quý gì mà cứ giữ mãi!
Tin Thật Buồn Cho Dân Tộc!
Ngày 7-1-2007, Bộ Chính Trị Đảng CSVN vừa ký ban hành Chỉ Thị số 06-CT/TW thúc đẩy dân chúng cả nước học tập về “Tư Tưởng Đạo Đức Hồ Chí Minh”. Thời gian học tập là 4 năm bắt đầu từ ngày 3-2-2007 đến ngày 3-2-2011 và dùng thời điểm 19-5 là ngày sinh nhật Hồ Chí Minh để kiểm điểm kết quả hàng năm!
Cuối cùng, trên tột đỉnh của tội ác, Đảng Cộng Sản đã mang chuyên chính vô sản vào phạm vi tư tưởng của Dân Tộc. Vào năm 2001, Cựu Trung Tướng Trần Độ, người đảng viên của thế hệ 1945 đã tự mình mở mắt và đã viết những dòng tâm tình cho những đảng viên thế hệ trẻ sau ông được mở mắt như ông (Trích Nhật K‎ý Rồng Rắn):
“Sự chuyên chính tư tưởng được thực hiện bởi một đội ngũ nòng cốt là “lưu manh tư tưởng”. Chuyên chính tư tưởng định ra những điều luật tàn khốc để bóp nghẹt mọi suy nghĩ, mọi tiếng nói… Nền chuyên chính tư tưởng này đang làm cho tất cả các trí thức không dám suy nghĩ gì. Thực ra nền chuyên chính vô sản này đã làm tê liệt toàn bộ đời sống tinh thần của một dân tộc, làm tê liệt sự hoạt động tinh thần của nhiều thế hệ, ra sức nô dịch toàn bộ tinh thần của nhiều thế hệ, làm nhiều thế hệ con người trở thành những con rối chỉ biết nhai như vẹt các nguyên l‎‎ý bảo thủ, giáo điều. Nó làm cho nền giáo dục khô cứng, làm cho các hoạt động nghệ thuật nghèo nàn, mất hết cơ hội sáng tạo và mất hết hào hứng, nó làm cho các hoạt động khoa học bị khô cứng và nô dịch. Nền chuyên chính tư tưởng hiện nay ở Việt nam là tổng hợp các tội ác ghê tởm của Tần Thủy Hoàng và các vua quan tàn bạo của Trung Quốc, cộng với tội ác của các chế độ phát xít, độc tài”.
Tiếp theo những lời dẫn giải chính xác trên, Cựu Trung Tướng Trần Độ nói lên những hậu quả vô cùng tai hại của “Chuyên Chính Tư Tưởng” mà người viết xin được tô đậm nét:
“Nó tàn phá cả một dân tộc, hủy hoại tinh anh của nhiều thế hệ. Xét cho cùng, đó là tội nặng nhất về sự vi phạm nhân quyền. Vì không phải nó chỉ xâm phạm đến quyền sống của con người mà nó hủy hoại cuộc sống của rất nhiều người, đó là cuộc sống tinh thần, cuộc sống tư tưởng của cả một dân tộc. Nó đang làm hại cả một nòi giống. ”
Người viết xin chân thành lặp lại:
Hãy kính cẩn học bài học THÁO GỠ của Cựu Hoàng! Hãy THÁO GỠ và vất vào Sọt Rác Lịch Sử những thứ gì làm cản bước tiến của Dân Tộc, Tư Tưởng Hồ Chí Minh là một, có qu‎ý gì mà cứ giữ mãi.
Xin đừng TRÓI BUỘC Dân Tộc thêm nữa!!!


Viết tại Sydney,Úc Châu
Mùa Bịt Miệng 2007
Nhóm Tâm Việt Sydney

No comments: