Wednesday, February 10, 2010

Chương 8 Hồ Chí Minh, Kè Ném Đá Dấu Tay

Trần Dân Tiên Nâng Bi Hồ Chí Minh
Bác Hồ nhà ta đã từng nâng bi Lenin, Stalin, và Mao Trạch Đông với nghệ thuật nâng bi thật siêu đẳng. Lúc Bác còn lưu lạc trên đất Pháp, Bác chỉ đọc qua Bản Cương Lĩnh của Lenin. Khi vừa đến Mạc Tư khoa, nghe tin Lenin chết, Bác đã thương khóc thảm thiết! Trên báo Pravda ngày 27-1- 1924, Bác đã xưng tụng Lenin là CHA, là THẦY, nguyên văn như sau: “Khi còn sống, Người là cha, là thầy, là đồng chí và cố vấn của chúng ta. Ngày nay, Người là ngôi sao sáng chỉ đường cho chúng ta đi tới cách mạng xã hội. Lenin bất diệt sẽ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta… ” Do đó Bác đã khai tâm cho Tố Hữu làm bài thơ “Khóc Stalin” năm 1953, dân gian gọi đó là Bài Thơ Bợ Đít Stalin, bởi lẽ bài thơ có những câu nâng bi trắng trợn đến mức nhục nhã như sau:
“Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương Ông thương mười!”
Để nâng bi Stalin và MaoTrạch Đông, Bác Hồ cũng đã nói: “Ai đó thì có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể nào sai được!” Đề cao Bác Stalin và Bác Mao như vậy, thì cũng như tự đề cao mình, bởi lẽ mỗi mỗi điều gì, Bác Hồ cứ làm y như hai Bác kia “thì cũng không thế nào sai được, Đảng và Dân Tộc phải nhất trí vỗ tay khen và vâng lời mà thôi.” Hồ Chí Minh biết rằng trong chiến tranh ý thức hệ, vấn đề tuyên truyền và thần thánh hoá lãnh tụ vô cùng thiết yếu, cho nên ông đã hết lòng đề cao Lenin, Stalin, và Mao Trạch Đông. Nhưng còn ông, Chủ Tịch Hồ Chí Minh, thì ai là người đã tận tụy viết bài, viết sách, làm thơ ca ngợi và thần thánh hóa ông để cho Dân Tộc và thế giới biết đến. Thì đã có Trần Dân Tiên và T.Lan đó! Đây, hãy xem Trần Dân Tiên nâng bi Bác Hồ khi viết về ngày 2-9-1945: “Ngày hôm đó, lần đầu tiên thủ đô Hà Nội được mắt thấy người con yêu quý nhất của dân tộc Việt Nam… Nhân dân nhận thấy Hồ Chủ Tịch giản dị, thân mật như người cha hiền về với đám con… Quần chúng cảm thấy sâu sắc lòng thương yêu của một người Cha…”
Ở một đoạn khác, Trần Dân Tiên viết: “Chủ Tịch không bao giờ nghĩ đến mình. Người chỉ nghĩ đến người khác, nghĩ đến nhân dân. Hồ Chủ Tịch được nhân dân yêu mến là do tính cương trực và lòng trong sạch của người. Thái độ của người ngay thẳng… Vì Bác Hồ mà những người lao động trong nhà máy và trên đồng ruộng tăng thêm năng xuất. Đối với nhi đồng, tên Bác Hồ như là một người mẹ hiền. Chỉ nhắc đến tên Bác là các em trở nên ngoan ngoản… Nhân dân gọi Chủ Tịch là Cha Già của Dân Tộc…”
Hai đoạn văn nâng bi Hồ Chí Minh bên trên được trích dẫn từ quyển Những Mẫu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch mà tác giả là Trần Dân Tiên. Quyển sách xuất hiện vào mùa xuân 1948. Không ai biết Trần Dân Tiên là ai. Mãi đến năm 1985, tức là 37 năm sau, giáo sư Hà Minh Đức viết quyển Tác Phẩm Văn Học Của Hồ Chủ Tịch để ca ngợi văn tài của Bác thì Dân Tộc và cả thế giới mới biết Trần Dân Tiên chính là Bác Hồ. Thì ra Hồ Chí Minh đã tự mình nâng bi mình!
Nhân vật huyền thoại Trần Dân Tiên đã thực hiện nhiều đặc công phi thường cho Bác, những công tác mà tự Bác không thể ra mặt làm được. Công tác thứ nhất là nâng bi, đề cao, và thần tượng hóa Bác. Trần Dân Tiên đề cao Bác nào là “người con yêu quý nhất của dân tộc Việt Nam”, nào là “người cha hiền về với các con”, nào là “Cha Già của Dân Tộc”, vân vân… Trong văn học sử hay trong lịch sử chánh trị, không hề có nhân vật nào tự viết sách để thần thánh hoá mình như Hồ Chí Minh đã làm. Tự cổ chí kim chỉ có một mình “Bác Hồ nhà ta”! Nhân đây xin chép lại bài thơ độc đáo “Nói Láo Mà Nghe” trong thi văn truyền khẩu để qu‎ý bạn đọc chơi và xem tài láo phét của Bác Hồ có bằng nhân vật trong bài thơ hay không? Nhưng láo phét ai hơn ai thì không quan trọng vì bài thơ Nói Láo chỉ để đọc chơi cho vui mà thôi. Điều vô cùng quan trọng và tai hại là Bác Hồ đã láo khoác để dối gạt Dân Tộc! Đây bài thơ để đọc chơi cho vui:
Ta con ông Cống cháu ông Nghè
Nói láo trên trời dưới đất nghe
Sức mạnh Hạng Vương cho nửa đấm
Cờ cao Đế Thích chấp hai xe
Lội phăng ra biển lôi tàu lại
Chạy tuốt lên non cưỡi cọp về
Thuở nọ vào chơi trong tướng phủ
Ba ngàn công chúa phải lòng mê!
Công tác thứ hai của Trần Dân Tiên cũng không kém phần quan trọng. Đó là việc phỉ báng mạ lỵ tất cả lãnh tụ quốc gia như Đề Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, Trương Bội Công, v v… Ngồi vào chỗ Chủ tịch Hồ Chí Minh mà không ai biết, Trần Dân Tiên đã dễ dàng và thoải mái “ngậm máu phun” vào tất cả những vị yêu nước kể trên, nhưng cũng biết chừa Nguyễn Thái Học và các Liệt sĩ ở Yên Bái, vì gương hy sinh lẫm liệt của họ không thể nào bêu riếu được. Tuy nhiên đối với Việt Nam Quốc Dân Đảng, thì Trần Dân Tiên cũng phê bình rằng “không có chính cương rõ ràng và chỉ lo bạo động”. Thì ra, người nào Hồ Chí Minh giết được thì đã bị giết như Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi, Đức Huỳnh Giáo Chủ, Trương Tử Anh, Lý Đông A, Khái Hưng, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, v.v… Người nào Hồ Chí Minh không giết được thì dùng miệng lưỡi của Trần Dân Tiên phỉ báng mạ lỵ thay cho mình!
Hồ Chí Minh và Trần Dân Tiên tuy hai mà một, nhưng tuy một mà hai. Đến năm 1985, mặt nạ Trần Dân Tiên đeo trong 37 năm dài rơi xuống, hóa ra chỉ có một mình Bác Hồ mà thôi! Bác đã chơi trò ném đá dấu tay rồi! Đến khi Dân Tộc biết, thì đã quá muộn! Vốn tính gian xảo và tàn ác, Bác đã phối trí, quy tụ, điều động, phân công, sắp xếp, cất đặt, ủy nhiệm tay chân bộ hạ thân tín đi khắp nơi để “LÀM VIỆC” thay cho Bác. Bác đã tổ chức Bộ Máy Đánh Dân Tộc trong thời chiến và Bộ Máy Nghiền Dân Tộc sau khi làm chủ được Đất Nước trong ý nghĩa trọn vẹn của chữ “Orchestration” mà tác giả Minh Võ đã diễn tả trong quyển Ai Giết Hồ Chí Minh (trang 148). Vì muốn giữ tiếng Cha Già Dân Tộc, Bác đã phát triển kỹ năng Ném Đá Dấu Tay một cách vô cùng tinh xảo. Bác còn đi qua Nga nhờ cơ quan KGB giải phẩu sửa lại khuôn mặt cho có nét đầy đặn phúc hậu để che dấu bộ mặt thật với đôi mắt cú vọ của mình.
Câu chuyện Hồ Chí Minh dùng Trần Dân Tiên thi hành những công tác thay thế Bác là một minh chứng Bác là tay lão luyện trong môn pháp Ném Đá Dấu Tay. Bác thật xứng với ngôi vị Giáo Chủ của môn phái đó. Nghiên cứu cuộc đời làm chánh trị của Bác, từ lúc Bác mới bước chân vào nghề làm Việt Cộng cho đến khi Bác sắp sửa đi chầu các ông tổ Cộng Sản Mác Lê, Bác đã từng chủ mưu thanh toán biết bao nhiêu người yêu nước mà bàn tay Bác không vấy máu. Nói cách khác, Bác đã từng Ném Đá biết bao lần và Bác đã Dấu Tay rất kỹ nên không ai biết. Sau đây là những câu chuyện Bác đã dùng quái chiêu Ném Đá Dấu Tay, trong suốt cuộc đời gian trá từ năm 1924 cho đến những tháng ngày Bác viết di chúc.
Dịch Vụ Bán Cụ Phan Bội Châu Cho Pháp
Xin xem lại khúc phim lịch sử vào năm 1924. Vào năm đó, cụ Phan Bội Châu 57 tuổi, đã trải 40 năm nặng lòng vì nước từ lúc cụ 17 tuổi và đảm nhận chức Phó đội của Sĩ Tử Cần Vương Đội đáp ứng Hịch Cần Vương của vua Hàm Nghi. Cụ đã hoạt động 4 năm với Phong Trào Đông Du ở Nhật (1905-1909). Cụ đã bị Long Tế Quang cầm tù ở Quảng Châu (1914-1917). Năm 1924, cụ thành lập tại Quảng Châu một cơ quan gọi là Tâm Tâm Xã làm nơi đi lại hội họp các đồng chí và dịch viết các sách tuyên truyền gởi về nước để cổ động duy trì tinh thần cách mạng cho dân chúng, nâng cao dân trí dân tâm sau những cuộc đàn áp tàn khốc của thực dân Pháp. Vào năm đó, anh em Đông Du lâm vào một tình trạng rất thê lương quẫn bách. Đến nổi thức ăn hàng ngày còn chưa đủ, huống hồ nói chuyện cách mạng. Vì vậy mà đoàn thể gần như vỡ lỡ tan hoang. Trong quyển Ba Nhà Chí Sĩ Họ Phan (Ấn bản đầu ở Sài Gòn 1955, tái bản 1990 do NXB Văn Sử ở San José, CA), tác giả Đào Văn Hội viết (trang 127):
“Cụ Nguyễn Thượng Hiền thì bỏ lên Hàng Châu nương nhờ cảnh Phật. Cụ Nguyễn Hải Thần thì vào làm việc với chánh phủ Quảng Đông, làm một chân trông nom học sinh trong trường Võ Bị Hoàng Phố để lấy lương bổng sinh nhai”.
“Riêng có cụ Phan, tinh thần lúc nào cũng vững vàng thái nhiên, bất chấp cả mọi thiếu thốn khổ sở. Trong khi anh em chia lìa tan tác, cụ nhứt quyết ở lại Quảng Châu để duy trì tàn cuộc. Cụ viết báo Tàu để nuôi sống và nhịn ăn để châu cấp bọn thanh niên hoặc đang tòng học, hoặc đang hoạt động. Trong số đó có Nguyễn Công Viễn tức Lâm Đức Thụ, Trần Đức Quang tức Lê Quốc Đạt, Lê Tấn Anh tức Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong, v.v...”
Giữa hoàn cảnh túng thiếu của anh em cách mạng ở Quảng Châu như vậy, xuất hiện nhân vật Hồ Chí Minh rủng rỉnh xu hào dưới ẩn danh là Lý Thụy. Nắm trọn vẹn thế thượng phong trong tay, chi phí công tác do Liên Xô cung cấp, nơi cư trú do Đảng Cộng Sản Trung Quốc cho ở không mất tiền thuê, lại thêm bài bản tuyên truyền sách động quần chúng và mưu lược địch vận do Đại học Phương Đông ở Mạc Tư Khoa đào tạo, Hồ Chí Minh đã hoàn thành công tác điệp vụ cho Liên Xô quá dễ dàng! Vừa đến Quảng Châu, Hồ Chí Minh liền tiếp xúc với Tâm Tâm Xã, và chỉ 2 tháng sau, ngày 19-2-1925, ông báo cáo tin thắng lợi về cho Chủ Tịch Đoàn Đệ Tam Quốc Tế rằng “đã lập được một nhóm bí mật gồm 9 hội viên, trong đó có 5 hội viên là Đảng Viên Dự Bị của Đảng Cộng Sản, và 2 người là Đoàn Viên Dự Bị của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Lenin” (Trích quyển HCM, Nhận Định Tổng Hợp, tác giả Minh Võ, trang 515). Xin nhớ kỹ, “Đoàn Thanh Niên Cộng Sản” Hồ Chí Minh thành lập đầu tiên khi mới tập tễnh bước vào nghề làm cộng sản, đoàn đó ông đặt tên là “Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Lenin”. Tin thắng lợi cho Cộng Sản Liên Xô mà lại là tin thua thiệt về phía Dân Tộc. Nhóm bí mật gọi là “Cộng Sản Đoàn Lenin” đó gồm có Hồ Chí Minh và 8 người vốn là hội viên của Tâm Tâm Xã, đến tháng 6-1925, đã đồng ý thành lập Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội và đặt dưới quyền điều động của Hồ Chí Minh. Thế là Tâm Tâm Xã bị xóa sổ!
Cuối tháng 5-1925, Lâm Đức Thụ viết thư và gởi tiền lên Hàng Châu cho cụ Phan mời cụ về Quảng Châu để dự lễ kỷ niệm Đệ Nhất Chu Niên ngày Tuẫn Tiết của Liệt sĩ Phạm Hồng Thái (Xin chú thích: Tiền của ai mà Thụ có để gởi, nếu không phải của L‎ý Thụy - Hồ Chí Minh). Bức thư đó chính là kế hoạch đưa cụ vào tay Mật Thám Pháp. Trên đường đi, khi tới Bắc Trạm thuộc Tô giới Pháp ở Thượng Hải thì cụ bị Mật Thám Pháp đón bắt, bị đưa thẳng xuống tàu để chở về Việt Nam. Lúc Lâm Đức Thụ viết lá thư đó, thì ông đã gia nhập Cộng Sản Đoàn của Hồ Chí Minh, chớ không còn là hội viên của Tâm Tâm Xã nữa. Chi tiết nầy rất quan trọng, bởi lẽ một khi Hồ Chí Minh đã xóa sổ Tâm Tâm Xã thì biểu tượng người thành lập Tâm Tâm Xã là cụ Phan cần phải dẹp bỏ luôn để xóa hết dấu tích cho thật sạch. Người xưa đã từng nhận xét “nhổ cỏ thì phải nhổ tận gốc”, lẽ nào Đại Mưu Sĩ Hồ Chí Minh lại không tri hành! Thế mà đến năm 1977, Ban Nghiên Cứu Lịch Sử Đảng, trong tài liệu về các tổ chức tiền thân của Đảng, CSVN đã mặc nhiên coi tổ chức “Tâm Tâm Xã” của cụ Phan Bội Châu là tổ chức tiền thân của Đảng CSVN.
Xét hậu trường chánh trị lúc Nguyễn Ái Quốc - Lý Thụy xuất hiện ở Quảng Châu đến khi cụ Phan Bội Châu bị Pháp bắt, ta thấy manh nha một nhân vật đầy tham vọng và mưu lược mà mãi sau này, khi cướp được Chính Quyền ở Hà Nội, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh hiện nguyên hình như một hung thần tàn sát biết bao nhiêu nhà ái quốc của các đảng phái quốc gia, những vị tu hành đức độ, những sinh viên và học giả trong tay không một tấc sắt để tự vệ, Hồ Chí Minh cũng không tha. Đệ nhất hung thần đại mưu sĩ trên con đường tranh danh đoạt lợi theo lối bàng môn tả đạo từ cổ chí kim chính là Hồ Chí Minh. Lấy việc sau luận việc trước, sự triệt hạ Tâm Tâm Xã và dịch vụ bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp hẳn nhiên nằm trong vòng sắp xếp của Hồ Chí Minh lúc đó còn mang tên Lý Thụy. Đây là tội ác đầu tiên của Hồ Chí Minh, có tầm ảnh hưởng quan trọng, được ví như “Phát Đại Bác Đầu Tiên Bắn Vào Dân Tộc” như ở Chương 1 đã dẫn giải . Hồ Chí Minh đã ném viên đá chính trị đầu tiên đánh trúng cụ Phan Bội Châu và đã dấu tay rất kỹ.
Dịch vụ “Bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp” thực hiện khoảng tháng 6-1925 thì mãi đến 1985, Đảng viết lại lịch sử tuyên truyền rằng “Bác Hồ của chúng” là người thừa kế sự nghiệp cách mạng của cụ Phan Bội Châu. “Chuyển giao vai trò lãnh tụ cách mạng Việt Nam từ nhà yêu nước lão thành theo chủ nghĩa dân tộc Phan Bội Châu sang nhà yêu nước theo chủ nghĩa Cộng Sản đang tuổi thanh xuân Nguyễn Ái Quốc” (trích Lịch Sử Việt Nam, Tập 2, Nhà XB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1985, trang 198).
Làm gì có sự “chuyển giao”, chỉ có “âm mưu cướp đoạt” thôi! Đến thời CCRĐ, chúng còn tuyên án cụ là một địa chủ ác ôn, tịch thu từ đường, làm hình nộm của cụ để đấu tố và bôi phẩn vào mặt (hình nộm)! Sau vụ bán cụ Phan cho mật thám Pháp, với sự tiếp tay của Lâm Đức Thụ, Hồ Chí Minh còn tiếp tục bán một số thanh niên đã tốt nghiệp trường Võ bị Hoàng Phố. Đó là những người trong thời gian theo học mà không gia nhập tổ chức của Hồ Chí Minh. Trên đường về nước, họ đều bị mật báo cho Pháp bắt ngay ở biên giới Hoa Việt. Còn về phần Lâm Đức Thụ, mãi sau nầy vào năm 1953, để bịt miệng nhân chứng, Thụ bị đàn em của Hồ Chí Minh bắt trói bỏ vào rọ thả sông cho “mò tôm” ở Thái Bình là quê của ông!
Chuyện Gian Mà Không Ngoan
Bạn đọc thân mến ơi, có câu chuyện một người chun vào bụi rậm trốn mà không chịu nằm im, anh ta lại lên tiếng khiến cho bị lộ và bị bắt. Do đó, có câu vè “Lạy ông tôi ở bụi này” để diễn tả sự vụng dại đó. Ấy thế mà Chủ Tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng “lạy ông tôi ở bụi này” như vậy! Câu chuyện sau đây là một dẫn chứng (Trích Bối Cảnh Lịch Sử Chính Trị Việt Nam Cận Đại Và Hiện Đại của Bùi Anh Trinh, trang 186). Bùi Anh Trinh thuật lại chuyện Hoàng Tùng và các sử gia CSVN đổ tội cho Phan Bá Ngọc là người bán cụ Phan Bội Châu vì chính Hồ Chí Minh đã xác quyết như vậy. Đây, đoạn trích dẫn trong quyển Những Kỷ Niệm Về Bác Hồ của Hoàng Tùng, Bùi Anh Trinh viết lại như sau:
“Nhân nói về chính sách dùng người của Bác, tôi muốn kể chuyện này. Có lần trong một hội nghị về công tác tổ chức, L‎ý Ban nói: “Đối với con cán bộ, khi kết nạp vào Đảng, không cần có thời gian dự bị mà được chính thức ngay”. Bác nói ngay: “Chú nói như thế không đúng, đối với cách mạng phải xem người ấy cụ thể như thế nào. Vì có chuyện hổ phụ sinh khuyển tử, tức là hổ đẻ ra con là chó. Phan Bá Ngọc là con của Phan Đình Phùng đã đưa mật thám bắt Phan Bội Châu”.
Hoàng Tùng đã nghe Bác nói và thuật lại như vậy. Một số nhân vật thân cận với Hồ Chí Minh cũng có nhắc như vậy trong bài tùy bút của họ. Điều đó chứng tỏ Hồ Chí Minh đã nói nhiều lần với nhiều người sự việc “Phan Bá Ngọc đưa mật thám Pháp bắt cụ Phan Bội Châu”. Hồ Chí Minh đâu có cần phải đổ vấy cho Phan Bá Ngọc là thủ phạm nếu ông không liên can gì đến vụ bán cụ Phan. Bác Hồ nhà ta quả thực gian mà không ngoan! Bác tưởng đâu chuyện xảy ra ở Trung Hoa 30 năm trước không còn nhân chứng, nhưng Bác ta quên rằng sử còn lưu lại rõ ràng là Phan Bá Ngọc đã bị Lê Tản Anh (hay Lê Tấn Anh?) ám sát vào ngày rằm tháng giêng năm Nhâm Tuất (năm 1922).
Vào lúc đó, cụ Phan Bội Châu đang ở Bắc Kinh, làm biên tập viên cho báo Đông Á Tân Văn, chính cụ đã viết lại trong Phan Bội Châu Niên Biểu khi “thột nhiên nghe được tin Phan Bá Ngọc bị ám sát ở Hàng Châu” (trang 200):
“Ngày 15 tháng giêng năm Nhâm Tuất, chính là ngày nguyên tiêu, người Hàng Châu có tục xem đèn bên bờ Hồ Tây, đèn nháy như sao, náo nhiệt cực kỳ. Hốt nhiên trong ngàn tiếng pháo tre, nghe ba tiếng súng lục, tức khắc có người chết nằm ngã giữa đất, máu lấm toàn thân; lính Cảnh sát Tàu lại, soát ở trong người bị bắn có 2.150$ và một đồng hồ vàng trị giá 60$ mà người đó đã tuyệt mệnh. Ôi! Người đó mà cũng đồng bào ta! Mà lại con nhà cựu thù với Pháp đó! Ai giết người nầy? Chính là người thiếu niên sắc sảo đáng gọi là liệt sĩ: Lê Tán Anh (tức Lê Hồng Sơn)”.
Bây giờ, sau Mùa Bịt Miệng 2007, đến Mùa Phá Tòa Khâm Sứ Hà Nội 2008, nếu có lời chất vấn: “Bác Hồ bảo Phan Bá Ngọc đã bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp, vụ mua bán xảy ra ngày 30-5-1925, nhưng Phan Bá Ngọc đã bị bắn chết vào ngày rằm tháng giêng 1922, tức là hơn 3 năm trước đó, làm sao ông có thể đội mồ sống dậy để bán cụ Phan cho được?” Tác giả Bùi Anh Trinh đã đặt câu hỏi như vậy. Bây giờ, để minh oan cho Bác, đứa cháu ngoan nào hay văn nô nào trong Đảng có thể trả lời!? Nhưng làm sao minh oan cho được, Bác đã là thủ phạm bán cụ Phan, mà còn “lạy ông tôi ở bụi này”. Bác thật sự “Gian Mà Không Ngoan”!
Ném Viên Đá Khổng Lồ Vào Miền Bắc
Đúng ra Hồ Chí Minh không ném một viên đá khổng lồ mà đã ném muôn vạn viên đá nhỏ. Trong truyện Tây Du K‎ý, nhân vật thần thoại Tôn Hành Giả làm phép bứt một nắm lông của mình, bỏ vào miệng nhai nhỏ, rồi phun ra thành muôn ngàn Tiểu Tôn Hành Giả để cho ông sai khiến. Trong chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất, nhân vật Hồ Chí Minh cũng làm y như vậy. Từ Phủ Chủ Tịch (vào thuở đó có thể ở Tuyên Quang theo lời kể của T.Lan), ông đã ném hàng vạn viên đá ra khắp nơi ở miền Bắc. Viên đá trúng ai thì người ấy chết… Như viên đá đầu tiên, Bác đã ném tới Thái Nguyên, và Bác đã giết ngay bà Năm Cát Hanh Long! Nhưng sức đâu mà “Bác Hồ nhà ta” ném xa như vậy. Thì Hồ Chí Minh cũng làm y như Tôn Hành Giả. Bác đã dùng những Tiểu Hồ Chí Minh đi khắp nơi để thi hành công tác CCRĐ thay cho mình. Mỗi một viên đá là một Tiểu Hồ Chí Minh. Xin qu‎ý bạn đọc thứ lỗi vì người viết đã khá dài dòng để chỉ muốn nói rằng trong chiến dịch CCRĐ, Hồ Chí Minh chính là thủ phạm đã ném đá dấu tay và vất đổ trách nhiệm cho Trường Chinh và các người khác.
Đi ngược dòng thời gian và tìm đến cội nguồn của chiến dịch CCRĐ, từ Cục Lưu Trử Quốc Gia Liên Xô tận Mạc Tư Khoa, ta phát giác được 2 bức thư của Hồ Chí Minh gởi cho Stalin, viết bằng tiếng Nga (Nguồn http://www.phusa.info/ do Thanh Nam tạm dịch).
Bức Thư Thứ Nhất viết ngày 30-10-1952:
Đồng chí Stalin thân mến,
Tôi bắt đầu soạn thảo đề án Cải Cách Ruộng Đất của Đảng Lao Động Việt Nam, và sẽ giới thiệu với đồng chí trong thời gian tới.
Tôi gởi tới đồng chí một số yêu cầu, và hi vọng sẽ nhận được chỉ thị của đồng chí về những vấn đề này.
Những yêu cầu Hồ Chí Minh muốn trình bày với Stalin là: 1- Xin Stalin gởi đến Việt Nam hai đồng chí Liên Xô biết tiếng Pháp để làm quen và tìm hiểu thực trạng. 2- Xin gởi tới Liên Xô từ 50 đến 100 du học sinh Việt Nam. 3- Xin 10 tấn thuốc kí ninh. Và điều 4- Xin 144 khẩu cao xạ 37 li, 72 khẩu pháo trận địa 76,2 li, và 200 khẩu súng phòng không và tổng số đạn cho tất cả các loại là 10 cơ số cho mỗi khẩu.
Hồ Chí Minh chấm dứt bức thư thứ nhất như sau:
Sau khi nhận những chỉ thị của đồng chí về những vấn đề trên, tôi dự định vào ngày mùng 8 hoặc là mùng 9 tháng 11 sẽ rời khỏi Moscow.
Gởi tới đồng chí lời chào cộng sản và lời chúc tốt đẹp nhất.
Hồ Chí Minh (kí tên bằng Hán tự), ngày 30-10-1952
Qua hôm sau, 31-10-1952, Hồ Chí Minh gởi Bức Thư Thứ Hai:
Đồng chí Stalin thân mến!
Tôi gửi cho đồng chí đề án CCRĐ của Đảng Lao Động Việt Nam. Đề án này tôi đã hoàn thành với sự giúp đỡ của 2 đồng chí Liu Shaoshi và Van Szia Sian. Đề nghị đồng chí tìm hiểu và đưa ra chỉ thị về đề án này.
Đề nghị ngài xem xét và cho chỉ dẫn.
Gửi lời chào cộng sản.
Hồ Chí Minh (kí tên chữ Việt), ngày 31-10-1952
Chuyện đời “có lửa mới có khói”, cho nên hễ có nạn nhân bị sát hại thì phải có kẻ giết người, án sát nhân nào cũng phải có thủ phạm. Khi có nhiều thủ phạm, thì ta lại phân biệt chính phạm và tòng phạm. Do Hai Bức Thư trên làm tang chứng, Lịch Sử sẽ viết rằng:
“Đề án CCRĐ của Đảng Lao Động Việt Nam là do Hồ Chí Minh soạn thảo với sự giúp đỡ của hai đồng chí Trung Cộng Liu Shaoshi và Van Szia Sian. Sau đó đề án được đệ trình lên đồng chí Stalin của Liên Xô để xem xét và cho chỉ thị và sau cùng được Hồ Chí Minh ban hành trên miền Bắc VN”.
Ta thường nói “Búa rìu dư luận”, dư luận một thời mà còn có búa rìu, lẽ nào lịch sử nghìn đời lại không có tòa án và pháp trường hay sao? Án sát nhân giết chết mấy trăm ngàn nông dân giỏi tay nghề ở miền Bắc, vùng châu thổ sông Hồng (vì giỏi nghề nông, cần mẩn, và biết ăn biết để nên các nông dân nghèo mới thành trung nông, phú nông, và địa chủ), vụ án giết người khủng khiếp nhất trong lịch sử Việt Nam bởi lẽ nạn nhân trước khi bị giết còn bị hành hạ, đánh đập, nhục mạ vô cùng tàn nhẫn, sách lược giết người đại quy mô đó lại do Âm Mưu Quốc Tế của Hồ Chí Minh từ hang Pắc Bó đến tận Mạc Tư Khoa để sắp xếp cùng với các đồng chí Cộng Sản Nga Tàu của ông. Hồ Chí Minh đã đi vào Lịch Sử là Chính Phạm của vụ án CCRĐ, lẽ nào Tử Tội Hồ Chí Minh trốn thoát khỏi Pháp Trường Lịch Sử. Hồ Chí Minh phải đền mạng, không phải đền một mạng, mà phải đền cả mấy trăm ngàn lần, cả triệu lần cũng nên! Những đoạn viết sau đây chỉ để cho các thế hệ tương lai nhận rõ Hồ Chí Minh “mặt người dạ thú và tội ác của ông là tuyệt vô nhân đạo”. Trong bài viết k‎ý tên Đ.X, Hồ Chí Minh đã kết án các địa chủ những lời như vậy. Nhưng không có địa chủ nào “mặt người dạ thú” bởi lẽ không có địa chủ nào ở Việt Nam phạm tội giết người cả. Chỉ có Chủ Tịch Hồ Chí Minh phạm tội giết vô số địa chủ mà thôi. Cho nên trong lịch sử VN, chỉ có Hồ Chí Minh là “Mặt Người Dạ Thú Và Tội Ác Của Ông Là Tuyệt Vô Nhân Đạo”, duy nhất chỉ có một mình ông xứng danh như vậy! Lời của ông, bây giờ xin hoàn trả lại cho ông! Suy ra chính ông đã chữi ông vậy!
Chính Phạm Giết Bà Năm Cát Hanh Long
Ngày 21-7-1953, trên báo Nhân Dân của Đảng có một bài viết tựa đề “Địa Chủ Ác Ghê” lời lẽ vô cùng điêu ngoa, vu khống ba mẹ con bà Năm Cát Hanh Long đã giết hại tất cả 260 người nông dân vô tội. Bài báo k‎ý tên là C.B. Không ai biết C.B. là ai. Mãi cho đến 54 năm sau, một người Việt ở Úc Châu tên Nguyễn Quang Duy tìm trong tập 6 của bộ Hồ Chí Minh Toàn Tập có 15 bài viết của Hồ Chí Minh k‎ý tên C.B. Nhưng trong 15 bài viết đó lại không có bài “Địa Chủ Ác Ghê”! Thì ra bài viết đó quá ư đểu cáng, Bác đặt điều phỉ báng cực kỳ phi lý, đọc lên chỉ làm trò cười cho mọi người, nên Đảng phải đánh lờ bỏ quên đi để cho “Bác của chúng” khỏi mang tiếng.
Với bài báo “Địa Chủ Ác Ghê”, Hồ Chí Minh đã quyết tâm kết án tử hình bà Năm Cát Hanh Long rồi! Bà Năm đã sát hại 260 nông dân vô cùng dã man “theo lời vu khống của Bác” thì bà phải chết thôi! Vậy mà Bác lại phát biểu trước Bộ Chính Trị rằng: “Tôi đồng ‎ý người có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào người đàn bà mà người ấy lại cũng giúp đỡ cho cách mạng. Người Pháp nói rằng không nên đánh đàn bà dù đánh bằng một cành hoa”. Bác đã dã tâm kết án tử hình bà Năm, vậy mà miệng lưỡi còn lôi kéo “Phép Nịnh Đầm” của Pháp vào để chống chế! Thế mới biết bộ mặt giả nhân giả nghĩa đáng ghê tởm của Hồ Chí Minh, đúng là “mặt người dạ thú”!
Tìm ra tác giả bài “Địa Chủ Ác Ghê” là Hồ Chí Minh đã là một Kỳ Công trong lịch sử. Sau đó cây viết trẻ Nguyễn Quang Duy còn tìm trong Hồ Chí Minh, Biên Niên Tiểu Sử, tập 5 trang 418, thêm một bài viết khác của Hồ Chí Minh dưới ẩn danh là Đ.X. Nguyễn Quang Duy viết như sau: “Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Địa Chủ Phản Động Ác Ghê”, k‎ý bút danh Đ.X, đăng trên báo Cứu Quốc số 2459 (ngày 2-11-1953), tố cáo tội ác của một số địa chủ phản động đã cấu kết với thực dân và bù nhìn để phản dân, phản nước, mưu phá hoại chính sách ruộng đất của chính phủ. Chúng là bọn mặt người dạ thú và tội ác của chúng là tuyệt vô nhân đạo…”
Đến ngày 19-12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh k‎ý sắc lệnh cho thi hành CCRĐ tại tỉnh Thái Nguyên là ATK của Việt Cộng (ATK=An Toàn Khu). Đến đây, hậu trường chánh trị của CCRĐ hiện ra rõ như chuyện “Đêm Giữa Ban Ngày”. Hồ Chí Minh đã chuẩn bị viên đá đầu tiên ném vào bà Nguyễn Thị Năm tuần tự như sau:
1- Ngày 30 và 31-10-1952 đến Mạc Tư Khoa đệ trình lên Stalin “Đề Án CCRĐ của Đảng Lao Động VN” để xin chỉ thị và nhân tiện xin súng đạn.
2- Ngày 21-7-1953 viết bài “Địa Chủ Ác Ghê” bút danh C.B. để kết án tử hình bà Năm Cát Hanh Long.
3- Ngày 2-11-1953 viết thêm bài “Địa Chủ Phản Động Ác Ghê” k‎ý bút danh Đ.X.
4- Và sau cùng, ngày 19-12-1953 k‎ý sắc lệnh ban hành CCRĐ khởi đầu ở tỉnh Thái Nguyên để bắt bà Năm Cát Hanh Long phải là nạn nhân đầu tiên. Cần ghi nhớ là viên Đội Trưởng chỉ huy vụ đấu tố Bà Năm là người Nghệ An, đồng hương với Bác.
Lịch sử xảy ra đúng theo sự sắp xếp của Hồ Chí Minh. Sau khi bà Năm Cát Hanh Long bị giết, các đoàn đội CCRĐ, như những ông Trời Con, gieo kinh hoàng khắp cả 3563 ngôi làng của nông thôn miền Bắc, nâng con số nạn nhân bị đấu tố lên 200.000 người, nếu kể hết số thân nhân liên hệ với người chủ gia đình bị đấu tố, con số có thể tới 500.000 hay hơn nữa! Trước sự bất mãn càng ngày càng gia tăng trong dân chúng, và sau khi thấy đã giết đủ số người cần giết, tức là những người có chiều hướng chống đối chế độ Cộng Sản, Hồ Chí Minh mới phát động Chiến Dịch Sửa Sai. Tại Hội nghị Trung ương, Trường Chinh bị mất chức Tổng bí thư, Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương mất chức ủy viên Bộ chính trị, và Hồ Viết Thắng ra khỏi Trung ương Đảng. Hồ Chí Minh kiêm nhiệm Tổng bí thư, đoạt chức vị của Trường Chinh một cách dễ dàng.
Ông Tổ Nghề Tố Điêu
Như một nhà thiện xạ dùng một mũi tên bắn trúng hai con chim, bài viết “Địa Chủ Ác Ghê” của Hồ Chí Minh cũng được ví von như vậy. Mục tiêu thứ nhất Hồ Chí Minh nhắm vào là giết bà Năm Cát Hanh Long, mà phải giết bà đầu tiên để gây thanh thế cho cuộc CCRĐ. Mục tiêu thứ hai, không kém phần quan trọng, là nhắm vào việc huấn luyện các cốt cán sau nầy bằng bài tố điêu ngoa mẫu mực đúng tiêu chuẩn của mình để cho các đàn em cốt cán noi theo. Do đó, bài “Địa Chủ Ác Ghê” cần được chép lại nguyên văn để qu‎ý bạn tìm hiểu về ngón nghề của Ông Tổ Nghề Tố Điêu Hồ Chí Minh. Nhân đây, xin ghi nhận công sưu tầm của Nguyễn Quang Duy, một cây viết trẻ, kiệt xuất trong hàng ngũ tranh thủ Dân Chủ, Tự Do, và Nhân Quyền cho Việt Nam.
Địa Chủ Ác Ghê (Tác giả C.B. tức Hồ Chí Minh)
“Thánh hiền dạy rằng: Vi phú bất nhân. Ai cũng biết rằng địa chủ thì ác: như bóc lột nhân dân, tô cao lãi nặng, chây lười thuế khóa - thế thôi. Nào ngờ bọn địa chủ giết người không nháy mắt. Đây là một thí dụ. Mụ địa chủ Cát Hanh Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la đã giết chết 14 nông dân, tra tấn, đánh đập hàng chục nông dân nay còn tàn tật, làm chết 32 gia đình, gồm có 200 người. Năm 1944, chúng đưa 37 gia đình về phá rừng, khai ruộng cho chúng. Chúng bắt làm nhiều và cho ăn đói. Ít tháng sau, vì khổ cực quá, 32 gia đình đã chết hết, không còn một người. Chúng đã hãm chết hơn 30 nông dân. Năm 1945, chúng đưa 65 nông dân bị nạn đói ở Thái Bình về làm đồn điền. Cũng vì chúng cho ăn đói, bắt làm nhiều, ít hôm sau, hơn 30 người đã chết ở xóm Cầu Hang. Năm 1944-45, chúng đưa 20 trẻ em mồ côi về nuôi, chúng bắt các em ở dưới hầm, cho ăn đói, mặc rách, bắt làm quá sức, lại đánh đập không ngớt. Chỉ mấy tháng sau, 15 em đã bỏ mạng. Thế là ba mẹ con địa chủ Cát Hanh Long đã trực tiếp, gián tiếp giết ngót 260 đồng bào.
Còn những cảnh chúng tra tấn nông dân thiếu tô, thiếu nợ, thì tàn nhẫn không kém gì thực dân Pháp. Thí dụ: trời rét, chúng bắt nông dân cởi trần rồi dội nước lạnh vào người. Hoặc bắt đội thùng nước lạnh có lỗ thủng, nước rỏ từng giọt vào đầu, vào vai, đau buốt tận óc tận ruột. Chúng trói chặt nông dân, treo lên xà nhà, kéo lên kéo xuống. Chúng đóng gióng trâu vào mồm nông dân, làm cho gẫy răng, hộc máu. Bơm nước vào bụng rồi giẫm lên bụng cho hộc nước ra. Chúng đổ nước cá nước mắm làm cho nôn sặc lên. Chúng lấy nến đốt vào mình nông dân, làm cho cháy da bỏng thịt. Đó là chưa kể tội phản cách mạng của chúng. Trước kia chúng đã thông đồng với Pháp và Nhật để bắt bớ cán bộ. Sau Cách Mạng Tháng Tám, chúng đã thông đồng với giặc Pháp và Việt gian bù nhìn để phá hoại kháng chiến. Trong cuộc phát động quần chúng, đồng bào địa phương đã đưa chứng cớ rõ ràng ra tố cáo, mẹ con Cát Hanh Long không thể chối cãi, đã thú nhận thật cả những tội ác hại nước hại dân”.
Lời Bàn: Tự mình đề cao mình nào là “Cha Già Dân Tộc”, nào là “Người Con Yêu Qu‎ý Nhất Của Dân Tộc” là Trần Dân Tiên tức Hồ Chí Minh. Nhưng oan nghiệt thay, viết bài “Địa Chủ Ác Ghê” k‎ý bút hiệu C.B. trên đây, cũng là Hồ Chí Minh. Cho nên chính ông đã tự hạ phẩm cách của mình xuống đến mức đê hèn đểu cáng nhất trong lịch sử loài người! Lời kết án có quá nặng chăng, người viết chỉ xin nhân danh “Mấy trăm ngàn Oan Hồn Uổng Tử trong chiến dịch CCRĐ” và viết lại cho đúng với sự thật, xin qu‎ý bạn bình tâm đọc tiếp.
Trước hết, xin nhắc lại chuyện cha của Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh Huy đậu Phó Bảng và được cử làm Tri Huyện Bình Khê, Bình Định. Đến năm 1910, trong cơn say rượu, ông tra khảo và đánh chết một người tù tên Tạ Đức Quang. Hội Đồng Nhiếp Chính ở Huế cứu xét và cách chức ông! Đấy, “quan Tri Huyện cha của Bác” làm chết một mạng người còn bị cách chức thay. Thế tại sao một địa chủ như bà Năm Cát Hanh Long đã sát hại cả 260 người nông dân mà không bị pháp luật trừng phạt? Hiển nhiên, Bà Năm không bị pháp luật trừng phạt như quan Huyện Bình Khê là vì Bà vô tội, Bà không giết ai cả! Người viết xin lặp lại “Bà Năm không giết ai cả”, “Bác” đường đường là Chủ Tịch Đảng uy quyền tuyệt đối, muốn giết ai mà không được, như trong Lễ Tế Cờ, “Bác” đã giết hàng mấy chục ngàn người, tại sao “Bác” lại phải viết bài “Địa Chủ Ác Ghê” để vu khống cho Bà Năm! Viết làm chi để phạm tội sát nhân còn mắc thêm tội vọng ngữ, rồi còn để lại tiếng xấu là người hèn hạ đểu cáng nhất trong Lịch Sử!
Trong tự tình dân tộc của một xã hội thuần hòa sống về nông nghiệp, “không có một địa chủ nào ác độc đến mức đánh đập người làm, bắt làm việc nhiều, và cho ăn đói đến nổi người đó phải chết”, tuyện nhiên không. Người viết đã hội ‎‎ý với những vị cao niên tuổi bát tuần hiện ở Sydney. Họ sinh trưởng ở miền Bắc và đã trưởng thành trong nền văn hóa của Dân Tộc: như ông P.Đ.K. (cựu thẩm phán), ông T.V.B. (cán sự địa chánh), ông B.V.Nh. (thi sĩ, võ sư, và Giám đốc Võ Đường), ông Ng.Th.S. ( nhà giáo), bà Ng.Th.Nh. (thi sĩ, Hội Trưởng hội TNĐD), ông Đ.Th. (chuyên viên điện toán), v.v… Tất cả đều khẳng định: “Ở miền Bắc, không hề có một địa chủ nào ác độc như Hồ Chí Minh đã diễn tả trong bài “Địa Chủ Ác Ghê”. Tuyệt nhiên không hề có! Giết 1 người còn không có, huống hồ giết đến 260 người! Hồ Chí Minh chỉ bịa chuyện!”.
Xưa nay, xã hội Việt Nam không có giai cấp mà chỉ phân biệt theo ngành nghề gồm 4 nhóm Sĩ Nông Công Thương tức là giới sĩ phu, nhóm nhà nông, thợ thuyền, và những người làm nghề buôn bán. Những nhà nông bao gồm nông phu nghèo và địa chủ giàu là giới đã cộng lực làm ra hạt lúa nuôi sống Dân Tộc cả ngàn đời. Ngồi viết bài “ Địa Chủ Ác Ghê”, Hồ Chí Minh đã mặc nhiên đứng vào chỗ đối kháng với nền văn hóa của Việt Tộc. Bởi lẽ ông đã bôi lọ và vu khống không phải một người địa chủ là bà Năm mà ông đã phỉ báng trọn cả một bộ phận của Dân Tộc. Xét trên phương diện này, Hồ Chí Minh đã bước vào đúng vết chân của một giáo sư người Pháp kỳ thị chủng tộc ở trường Quốc Học Huế. Câu chuyện sau đây do học giả Đào Đăng Vỹ tường thuật trong bài Cuộc Bãi Khóa Năm 1927 Của Học Sinh Quốc Học & Đồng Khánh (Đặc San Quốc Học & Đồng Khánh, xuất bản tại Sydney năm 2000, trang 33): “Trong niên học 1927, có một giáo sư người Pháp la rầy một học sinh, ông lại chưỡi mắng cả Dân Tộc VN, và nhục mạ cụ Phan Bội Châu lúc đó đang bị an trí tại Huế. Bị nhục Quốc thể, tất cả học sinh trường Quốc Học đồng lòng bãi khóa để phản đối vị giáo sư người Pháp kỳ thị chủng tộc đó, và cuộc bãi khóa lan sang trường Đồng Khánh và trường Providence ở Huế”.
Về mặt tâm linh đạo đức, khi viết bài “Địa Chủ Ác Ghê”, Hồ Chí Minh đã sai phạm rất nặng vào khuôn vàng thước ngọc của các Tôn Giáo trên thế gian. Như đạo Khổng là đạo dạy làm người, trong Ngũ Thường tức Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín thì đứng đầu là “NHÂN tức là lòng nhân từ bác ái”. Trong Thiên Chúa Giáo, trong mười Điều Răn của Đức Chúa thì điều số 4 là “Chớ Giết Người” và sau 10 Điều Răn, Đức Chúa tóm tắt bằng câu “Hãy Thương Người Như Mình Ta Vậy”. Trong Ngũ Giới theo lời Phật dạy thì điều giới thứ nhất là “Cấm Sát Sinh vì độ lượng từ bi thương yêu tất cả chúng sinh”. Trong dòng sinh mệnh của Việt Tộc, suốt 4000 năm dựng nước và giữ nước, câu phương ngôn “Thương Người Như Thể Thương Thân” thì không người Việt nào là không biết! ‎Ấy thế, Hồ Chí Minh hô hào “Kách Mệnh” mà lại không đếm xỉa tới những điều đạo đức nhân ái đó. Bài “Địa Chủ Ác Ghê” đã khơi dậy lòng hận thù của cốt cán bần cố nông để đưa cả “bầy đàn” vào cuộc chém giết rùng rợn, biến trọn cả miền Bắc thân yêu thành “Sát Trường rộng bao la”, và biến mỗi xã thôn thành một “Địa Ngục Trần Gian nho nhỏ” (“bầy đàn” chữ của Vũ Thư Hiên). Bài “Địa Chủ Ác Ghê” viết từ trái tim của HỒ CHÍ MINH, MỘT NGƯỜI ĐỘC ÁC NHẤT TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM, bài viết đó xin được gọi là “Lệnh Quỉ Vương Gọi Bầy”!
Xin nhắc lại câu nói để đời của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu “Đừng nghe những gì Việt Cộng nói, mà hãy nhìn những gì Việt Cộng làm”. Vâng, đúng vậy, chỉ nhìn những gì Hồ Chí Minh làm cho Dân Tộc, đã là một Khối Tội Ác Khổng Lồ rồi. Nhưng nếu xét tới những gì ông đã làm theo sách lược Ném Đá Dấu Tay, như bài viết “Địa Chủ Ác Ghê” trên đây, thì thật không lời nói nào trên thế gian có thể diễn tả được sự hèn hạ, đểu cáng, nham hiểm, ác độc về nhân cách con người! Chỉ vì muốn mang “Lá Cờ Đỏ của Lenin đi khắp nơi”, Hồ Chí Minh đã sa xuống mạt hạng cùng đinh vô nhân cách, không một chỗ đứng nào trong nền Tinh Hoa Văn Hóa Thế Giới, thì đừng hòng một địa vị trong lòng Việt Tộc!
Tướng Tô K‎‎ý Đỡ, Đại Tá Phùng Thế Tài Đánh
Câu chuyện “Đánh Và Đỡ” của hai vị tướng tá này liên quan đến cuộc thảm sát hàng trăm thanh thiếu niên miền Nam tập kết ra Bắc và đàng sau hậu trường chính trị ẩn hiện bàn tay nhớp nhúa của Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Câu chuyện do tác giả Việt Thường tường thuật trong mục “Tướng Cao Bồi”của quyển Chuyện Thâm Cung Dưới Triều Đại Hồ Chí Minh (trang 64-71). Người viết đã lược thuật trong Chương 5 viết về Những Cây Người Hồ Chí Minh Trồng. Nguyên Phùng Thế Tài từng là viên bảo vệ thân cận của Hồ Chí Minh. Hắn.đúng là một cây người, vô tâm vô cảm, đã sát hại ở bờ sông Đoan Vĩ (Phủ L‎ý) những thanh thiếu niên con những cán bộ miền Nam tập kết. Và đến 1970, trong dịp tết Nguyên đán, chính Phùng Thế Tài cũng đã bắn chết ở bờ sông Bạch Hạc (Việt Trì) gần 200 tân binh gốc Hà Nội đòi công bằng trong nghĩa vụ quân sự sau khi đứng ra dàn xếp dụ dỗ và hứa sẽ khoan hồng (trang 69 sđd).
Xin nhỏ lệ cho 200 thanh niên Hà Nội con nhà dân giả này và nhất là khóc thật nhiều cho 200 bà mẹ đã bị mất con mà không biết vì cớ gì! Hai trăm cái chết oan khiên đó chỉ còn lưu lại trong vài hàng chữ của tác giả Việt Thường (trang 70 sđd): “…con dân thì bị bắt lính, còn con em lãnh đạo thì không. Và, nếu như có bị bắt lính thì không làm bia đỡ đạn, mà để mặc áo lính đi học ở các trường quân sự cao cấp ở Nga-xô hoặc các nước Đông Âu, hoặc học các trường đại học khác ở nước ngoài theo học bổng dành cho quân đội”.
Số thanh niên Hà Nội con nhà dân giả đó bị giết vì tranh đấu cho công bằng trong nghĩa vụ quân sự nên không gia nhập “Bộ Đội sanh Bắc tử Nam”. Do đó bàn tay chúng không vấy máu đồng bào miền Nam. Xin nguyện cầu cho 200 thanh niên tử nạn đó, với tâm hồn thiện lành lúc sinh thời, hương linh siêu thăng thánh thiện, hòa nhập vào Hồn Thiêng Sông Núi, và hộ trì cho mảnh đất Thăng Long ngàn năm văn vật mãi mãi là Địa Linh Nhân Kiệt, của trọn cả DânTộc khắp Bắc Trung Nam !
Về vụ bất mãn của thanh thiếu niên gốc miền Nam, tác giả Việt Thường viết (trang 69 sđd): “Vì bị đối xử bất công, nên chúng cướp tỉnh Ninh Bình, giữ Bí thư và Chủ tịch tỉnh cùng Trưởng ty Công an làm con tin. Tướng Tô K‎ý được lệnh đem quân “dẹp loạn”, đã thuyết phục số thanh niên đó đầu hàng và hứa sẽ khoan hồng cũng như sẽ xem xét những khiếu nại của họ. Trên đường về gặp Phùng Thế Tài. Tài cho đem tất cả số thanh niên đó ra bờ sông Đoan Vĩ (Phủ L‎ý) bắn chết hết”.
Câu chuyện chỉ có vậy, tác giả Việt Thường đã viết như vậy, Phùng Thế Tài cho đem tất cả số thanh thiếu niên đó ra bờ sông bắn chết hết. Nhưng sanh mạng của mấy trăm thanh thiếu niên không phải là chuyện nhỏ rồi cho thông qua. Bác Hồ ơi, đám thanh thiếu niên đó không phải là những tên sát nhân giết người cướp của không gớm tay đáng phải lãnh án tử hình! Trái lại chúng thuộc thành phần ưu tú, con em của những gia đình yêu nước có công kháng chiến ở miền Nam được chọn lọc để tập kết đưa ra Bắc. Hơn nữa, chúng phải sống cảnh xa nhà, xa cha mẹ, xa anh em ruột thịt, xa nơi chôn nhao cắt rún. Sao nỡ lòng nào sát hại chúng! Tướng Tô K‎‎ý thuộc thành phần tập kết, cùng cảnh ngộ với đàn em bất mãn đó, nên ông cố gắng thuyết phục các em đầu hàng và ông đã thành công. Tướng Tô K‎‎ý đã đỡ cho đàn em, nhưng cú đánh của Đại Tá Phùng Thế Tài quá mạnh nên ông Tướng Tô K‎‎ý đỡ không nổi. Tướng Tô K‎‎ý khiếu nại lên cấp trên, Bộ Chính Trị ra mặt ủng hộ quyết định cứng rắn của Phùng Thế Tài nên vị Tư Lịnh Quân khu Tây Bắc Tô K‎ý bị thất sủng và phải ngồi chơi xơi nước, tác giả Việt Thường đã viết như thế trong sách của ông!
Những nhận xét ở Chương 5 Những Cây Người Hồ Chí Minh Trồng, đoạn nói về Đao Phủ Phùng Thế Tài, người viết xin được lặp lại: “Xét lại vụ việc này, nghi vấn đặt ra là Phùng Thế Tài cấp bực đại tá thấp hơn tướng Tô K‎ý mà sao lại dám qua mặt thượng cấp. Phải chăng đàng sau đại tá Phùng Thế Tài là Ô Dù Bự của Bác? Phải chăng Tài đã nhận mật lịnh của Bác? Hỏi như vậy tức là đã trả lời! Nếu không có mật lịnh của Bác, làm sao Phùng Thế Tài dám hạ sát cả trăm sinh mạng. Hồ Chí Minh chính là người chủ mưu sát hại các thanh thiếu niên miền Nam tập kết: Bác đã chơi trò ném đá dấu tay”.
Trong vụ án sát nhân tập thể nầy, người viết xin trình thêm một nghi vấn. Vào lúc đó, chính thể Dân Chủ Cộng Hòa của Hồ Chí Minh, thực sự là Bộ Máy Đàn Áp Dân Tộc, vừa mới phát động. Với chế độ hộ khẩu tem phiếu khắc nghiệt, với cuộc CCRĐ ác độc tàn sát hàng trăm ngàn người vô tội, với những văn nô như Tố Hữu, Xuân Diệu chế ngự văn thi đàn để ca ngợi Đảng, có sáng tác trăm quyển ngàn bài thì cũng toàn màu hồng nâng bi Bác và Đảng, tóm lại thực chất chỉ là CÁI BÁNH VẼ KHỔNG LỒ. Những thanh thiếu niên miền Nam tập kết ấy, “trẻ người non dạ, hồn nhiên bộc trực như tánh tự nhiên của tuổi thanh xuân”, hẳn cảm nhận được màu sắc rực rỡ của Cái Bánh mà không mùi vị gì cả, biết đó là Cái Bánh Vẽ, không chịu ngồi xuống ăn vì chưa học được chữ “Nhẫn” như nhà thơ Chế Lan Viên. Bị đối xữ bất công mà bất mãn, rồi lại không chịu ăn Cái Bánh Vẽ của Hồ Chí Minh, tội của các em như vậy thì phải chết thôi. Nhưng điều đáng tiếc là cái chết của các em bị bưng bít, không gây được tiếng vang nào, không có cơ may lịch sử để cảnh tỉnh những trí thức miền Nam như luật sư Nguyễn Hữu Thọ, luật sư Trịnh Đình Thảo, bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, kỹ sư Trương Như Tảng, kỹ sư Hồ Văn Bửu, v.v… cho nên về sau họ vẫn ào ào nhào vào ăn Cái Bánh Vẽ của Hồ Chí Minh dọn trong Đại Yến Tiệc Giải Phóng Miền Nam, làm chết thêm mấy triệu người nữa, trong số đó có Nữ Bác sĩ Đặng Thùy Trâm! Đáng tiếc thay!
Nguyễn Bình, “Viên Đá” Hồ Chí Minh Ném Vào Nam Bộ
Sách Lược “Tù Vận”
Nguyễn Bình tên thật là Nguyễn Phương Thảo, nguyên là đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Ông luôn tôn thờ Đảng trưởng Nguyễn Thái Học. Ông nổi tiếng là một danh tướng ngang hàng với tướng Nguyễn Sơn, người đã tốt nghiệp Quân sự Học hiệu Hoàng Phố. Năm 1929 ông bị Pháp bắt đày ra Côn Đảo. Trong thời gian ở tù, xảy ra chuyện ông làm “ăn-ten” khai báo các tù nhân ở chung trại nên bị anh em trùm chăn dần cho một trận đòn hội chợ làm hư một mắt và su‎‎‎ýt chết! Chuyện Nguyễn Bình làm “ăn-ten” để bị đánh đến chột mắt là một nghi vấn lớn. Con người yêu nước Nguyễn Phương Thảo, gia nhập VNQDĐ, tôn thờ Đảng trưởng Nguyễn Thái Học, lại có biệt tài về quân sự, khí phách hơn người, lẽ nào chịu hạ mình làm “ăn-ten”! Điều đáng ghi nhận là ông ở tù chung với Lê Duẩn, Phạm Hùng, Phạm Văn Đồng, Tôn Đức Thắng, v.v… vốn nổi tiếng là những tay xảo quyệt, và chính những người này mới ngầm liên lạc mật thiết với “Thầy Chú”, tức là những cai tù! Có làm “ăn-ten” hay không, chính là những bộ mặt Cộng Sản này, chứ không ai khác. Bởi thế việc Nguyễn Bình bị đánh đến chột mắt có thể là ngón đòn dàn dựng theo sách lược địch vận sở trường của Cộng Sản mà người viết xin gọi là “Tù Vận”. Trần Kim Trúc, nguyên Tham Mưu Trưởng Trung đoàn 25 Bình Xuyên, tác giả quyển Tôi Giết Nguyễn Bình, có ghi một nhận xét khả dĩ rọi vài tia sáng vào ẩn tình (trang 36): “Có lẽ cũng vì trận đòn này, Nguyễn Bình phần nào thay đổi tính nết: một nửa còn hào khí của con người quốc gia, một nửa của con người Đệ Tam Quốc Tế”. Xin viết thêm: Trung đoàn 25 Bình Xuyên mà Trần Kim Trúc làm Tham Mưu Trưởng là hậu thân của Bộ Đội An Điền, thuộc đảng Đại Việt, vị Tư lịnh là Bùi Hữu Phiệt.
An Khê Viết Thêm Về Tù Vận
Những hồi k‎ý của k‎ý giả An Khê về Khám Lớn Sài Gòn và nhà tù Côn Đảo cung cấp thêm chứng tích về sách lược tù vận của Cộng Sản. An Khê thuật chuyện hồi ông ngồi tù ở Côn Đảo, “ông bị rớt cát-sô với 17 người nữa, đa số là tù áo trắng (tức là tù chánh trị) như kỹ sư Phan Khắc Sửu, giáo sư Trần Văn Quế, ông Võ Oanh gọi là Tú Oanh, anh giáo Thảo, anh giáo Thố, anh giáo Khai, ông bang biện Chiêu, ông hội đồng Võ Công Tồn, anh Trần Quốc Bửu, v.v…” Ông viết tiếp rằng sự việc có một số đông tù áo trắng bị sụp hầm như thế chưa từng xảy ra ở Côn Đảo và đấy là kết quả âm mưu ám hại của phe tù Cộng Sản, lúc đó đang làm mưa làm gió trên đảo. Theo k‎ý giả An Khê, ở Côn Đảo có một người tù được giữ chức “mémento”, tức là thơ k‎ý riêng cho ban điều hành khám đường (mémento là tiếng Pháp có nghĩa là sổ ghi chép). Anh mémento là thứ vua con của tù, nói gì xếp chánh cũng nghe. Vào lúc đó người mémento là một người tù thường phạm tên Hoàng, do bọn tù Cộng Sản vận động đưa lên làm công cụ để bành trướng thế lực và ám hại tù Quốc Gia. Chính tên Hoàng đã tâu với Gardien chef là Hillaire rằng nhân mùa gió thổi về hướng đất liền, cần phải đề phòng âm mưu vượt ngục nên phải nhốt các tù áo trắng nguy hiểm xuống hầm.
Rớt cát-sô hay bị sụp hầm tức là bị giam nơi chuồng cọp, hai người một hầm, trần truồng cả, cửa sắt bít bùng, chỉ hé mở vào buổi sáng đủ thời giờ để thay bô, và sáng chiều hai cữ đưa lọt rá cơm vào. An Khê thuật tiếp: “Chúng tôi đồng lòng tuyệt thực phản đối việc sụp hầm một cách vô cớ, đòi hỏi phải được ra làm việc ngoài chuồng cọp, hưởng chút ánh sáng và không khí”. Trước sự tranh đấu quyết liệt, tên xếp chánh Hillaire phải nhượng bộ. Hắn phát cho mỗi người một bộ quần áo cũ và cho ra ngồi se sợi ngoài hiên. Hai người một máy se, làm theo giờ hành chánh, nhà nước vừa có lợi, lại không mang tiếng ác.
Được làm ngoài trời khoảng nửa tháng, 18 người bỗng nhiên ai cũng đau bụng và đi tiêu chảy. Mấy người già yếu nằm liệt chiếu, không ai hiểu tại sao. Nhìn vào cơm toàn cát và mẻ tĩn đựng khô đầy xác ruồi, không ai dám ăn. An Khê viết: “Chừng gần tuần lễ bọn chúng tôi tưởng nguy đến tính mạng, chợt thấy bớt đau bụng và lần lần bình phục. Thì ra người tù có phận sự mang cơm đến là người Cao Miên, nghe lời xúi giục của bọn tù Cộng Sản mới pha nước bẩn vào thức uống, bỏ cát, xác ruồi vào cơm và thức ăn. Làm được mấy hôm, thấy có nhiều người bị bịnh nằm liệt, lương tâm cắn rứt, hắn mới đến lạy và thú nhận tội với ông Lục cụ, cũng đang ngồi tù vì tội đánh Pháp”. Nghe lời khuyên của ông Lục cụ, người tù Cao Miên hối hận mới ngưng việc đầu độc. An Khê cùng 17 bạn tù quốc gia mới thoát nạn.
Mãi đến 49 năm sau, khi viết loạt bài “Khám Lớn Sài Gòn” và “Đảo Côn Nôn 49 Năm Về Trước” (Đăng ở Làng Văn, các số 81, 86, 87), người tù An Khê nhận xét về Chân Tướng Việt Cộng: “Ở Khám Lớn Sài Gòn, phe Cộng là thiểu số. Nhưng khi ra Côn Đảo, họ đông hơn, có thế lực núp bóng cai tù, nên trở mặt, bảo: “Trên đảo chỉ có màu đỏ, không màu vàng.” Cho nên người quốc gia muốn yên thân trả nợ tù, phải nhuộm đỏ! Không là Cộng Sản tức là kẻ thù, không có khác, không được lưng chừng!”
Viết cho ngắn gọn: “Cuộc Chiến Tranh Của Hồ Chí Minh Đánh Dân Tộc” diễn ra khắp mọi mặt. Ở Côn Đảo thì những tù chánh trị Quốc Gia gặp khốn đốn với tù Cộng Sản. Ở trong bưng thì bị Cộng Sản ám hại hay bị tử hình vì vu cáo là gián điệp. Thật tình khi ấy, người ái quốc phe quốc gia không còn chỗ dung thân.
Thiếu Tướng Nguyễn Bình
Năm 1936, Nguyễn Bình được tha, về Bắc tìm lại VNQDĐ, lúc đó do Nguyễn Thế Nghiệp, Nguyễn Ngọc Sơn, và Chu Bá Phượng lãnh đạo. Nguyễn Bình được giao tổ chức cơ sở ở vùng Hải Phòng, Hòn Gai, Móng Cáy, và ông đã hoàn thành nhiệm vụ. Theo tác giả Bùi Anh Trinh (Quyển Bối Cảnh Lịch Sử Chính Trị Việt Nam Cận Đại, Hiện Đại, trang 389): “Ngày 2-9-1945 ông chỉ huy 2.500 quân của QDĐ tham dự duyệt binh tại quảng trường Hà Nội, trong khi toán của Võ Nguyên Giáp là 350 người.”
Không biết l‎ý do vì sao Nguyễn Bình đứng vào hàng ngũ của Hồ Chí Minh mà lại không gia nhập Đảng. Phải chăng vì cấp bậc Thiếu tướng của Hồ Chí Minh phong tặng cho ông? Phải chăng vì trận đòn hội chợ ở Côn Đảo làm ông chột mắt là mưu kế của CS ly gián ông với VNQDĐ? Phải chăng cả hai l‎‎ý do đều đúng?!
Cuối năm 1945, Nguyễn Bình được điều động vào Nam trong phái đoàn do Lê Duẩn cầm đầu với lời phủ dụ của Hồ Chí Minh: “Chú Bình, Nam Bộ đương là nơi để anh hùng tạo thời thế, tôi giao Nam Bộ cho chú đó”. Xin nhắc lại chi tiết lịch sử này (Quyển Tôi Giết Nguyễn Bình, trang 239): “Nguyễn Bình vào Nam Bộ, với danh nghĩa là một nhân vật trong phái đoàn do Lê Duẩn cầm đầu, rồi lãnh chức vụ Khu Trưởng Khu 7 nhưng vẫn chưa hẳn là đảng viên Cộng Sản”. Điều này rất quan trọng khiến cho ta hiểu rằng những hành động do Nguyễn Bình làm sau nầy đều phát xuất từ sự huy động của Lê Duẩn. Nói cách khác, Nguyễn Bình chỉ là tay sai, mặc dầu với cấp bực Thiếu tướng, Nguyễn Bình chỉ là viên đá Hồ Chí Minh ném vào miền Nam! Tất cả những vụ sát hại các vị yêu nước có tinh thần Quốc Gia Dân Tộc ở miền Nam đều do sự điều động của Chánh Phạm là Lê Duẩn và đàng sau Lê Duẩn là Đại Chánh Phạm Chủ tịch Hồ Chí Minh!
Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất
Nguyễn Bình lập căn cứ ở quận Tân Uyên thuộc tỉnh Biên Hòa, giáp với Chiến Khu Đ. Lúc đó thực lực của bộ đội Cộng Sản ở miền Đông chẳng có là bao. Theo tác giả quyển Tôi Giết Nguyễn Bình (trang 65): “Huỳnh Văn Nghệ, Kiều Đức Thắng, Đào Sơn Tây, Tô K‎ý, Tám Chùa (tức Huỳnh Tấn Chùa), chỉ có danh có tướng mà không có quân nhất là không có vũ khí”. Hãy xem Nguyễn Bình làm cách nào để thâu nạp bộ đội và vũ khí. Thì cũng cùng một sách lược của Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế y như Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Trấn áp dụng 8 tháng trước đó, Nguyễn Bình cũng đã sát hại những lãnh tụ quốc gia yêu nước và bắt tay với quân đội Pháp để triệt hạ lực lượng võ trang của họ!.
Nhắc lại lịch sử, sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh và chính phủ Trần Trọng Kim từ chức, để đối phó với tình trạng vô chính phủ ở Nam Bộ, vào ngày 14-8-1945, đáp lời kêu gọi của Hồ Văn Ngà, các vị như Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Ân, Trần Văn Thạch, v.v… đã liên kết các đảng phái và thành lập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất. Mặt Trận thể hiện sự đoàn kết toàn Nam Bộ, nên được hoan hô khắp mọi nơi. Nhưng bỗng nhiên đến ngày 25-8-45, Trần Văn Giàu cướp chính quyền và thành lập Lâm Ủy Hành Chánh Nam Bộ gồm 8 ủy viên là Cộng Sản Đệ Tam và 1 ủy viên thân cộng, để gạt ra ngoài Mặt Trận QGTN! Ngày 13-9, quân Anh đại diện lực lượng Đồng Minh do tướng Douglas Gracey đến Sài Gòn để giải giới quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở xuống. Đến ngày 16-9, quân Pháp theo chân quân Anh đổ bộ vào Sài Gòn, thì lập tức Lâm Ủy HCNB của Trần Văn Giàu rút về Chợ Đệm không kèn không trống, để mặc cho các lực lượng của Mặt Trận QGTN liều chết chống xâm lăng.
Ngày 23-9 quân Pháp tấn công các bót và cơ sở Hành Chánh Nam Bộ: trang lịch sử Nam Bộ Kháng Chiến bắt đầu từ ngày nầy. Một ủy ban phong tỏa Sài Gòn được thành lập do Nguyễn Văn Sâm, Kha Vạng Cân, Trần Văn Ân, Hồ Văn Ngà… Từ ngày 27-9 đến 30-9 Sài Gòn bị bao vây, khói lửa rực trời, thực vật khan hiếm, Pháp dụng kế hoãn binh để chờ tiếp viện và vận chuyển lương thực nên đề nghị hưu chiến. Ngày 1-10 cuộc hưu chiến Việt Pháp bắt đầu ở Sài Gòn. Lợi dụng dịp hưu chiến, Trần Văn Giàu và bộ máy công an Việt Minh bủa vây và bắt các chiến sĩ cách mạng quốc gia: Hồ Văn Ngà, Dương Văn Giáo, Huỳnh Văn Phương, Hồ Vĩnh K‎‎ý, Nguyễn Thị Sương, Lê Kim Tỵ, Lâm Ngọc Đường, Bùi Quang Chiêu, Trương Lập Tạo, một số đã bị giết để diệt trừ đối lập. Tất cả đảng viên nồng cốt Đệ Tứ đều bị chôn sống ở sông Lòng Sông (Bình Thuận): Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Phan Văn Chánh, Nguyễn Văn Sổ, Phan Văn Hóa, Trần Văn Sĩ, Nguyễn Văn Soái, Nguyễn Văn Tiền, v.v…
Đến đây, tưởng cũng nên trình diện cho Dân Tộc biết Bộ Máy Ám Sát của Lâm Ủy HCNB của Trần Văn Giàu. Một nhân chứng là Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu trong tác phẩm Phan Văn Hùm, Thân Thế & Sự Nghiệp đã viết như sau (trang 379): “Trong lần biểu tình ngày 2-9-1945, dân chúng Sài Gòn lần đầu tiên đã thấy được trong các đoàn biểu tình phô trương lực lượng, có một đám người kỳ lạ, ngực để trần, mình xâm chằng chịt, biểu diễn dưới tấm bản ghi “Ban Ám Sát Xung Phong”. Thiên hạ đồn với nhau: đây là tổ chức dưới quyền của Dương Bạch Mai, người phụ trách Quốc Gia Tự Vệ Cuộc”. Với Bộ Máy Ám Sát như thế, sau khi hoàn tất nhiệm vụ sát hại những chiến sĩ quốc gia yêu nước kể trên, Trần Văn Giàu chạy tuốt sang Bangkok và Dương Bạch Mai bỏ Nam Bộ chạy đi Bắc Việt.
Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp
Trần Văn Giàu đi, thì Nguyễn Bình đến! Vẫn bổn cũ soạn lại! Các lực lượng quốc gia yêu nước vẫn kiên quyết vừa chống Pháp vừa đề cao cảnh giác đối với Nguyễn Bình. Ngày 2-4-1946, một Ủy Ban Liên Hiệp Kháng Chiến được thành lập tại Bà Quẹo. Tác giả Nguyễn Long Thành Nam, trong quyển sử kiệt xuất nhan đề Phật Giáo Hòa Hảo Trong Dòng Lịch Sử Dân Tộc, đã viết thêm về biến cố đó như sau (trang 383):
“Nhưng liên hiệp quân sự không đủ, phải tiến đến liên hiệp chính trị tức liên hiệp toàn bộ. Vì thế, một đại hội quân chính được triệu tập bởi ông Vũ Tam Anh vào ngày 20-4-1946… Sau 3 ngày thảo luận liên tiếp và sôi nổi, mọi người đều chấp thuận lấy nghị quyết thành lập một mặt trận, mang danh nghĩa Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp với mục đích được minh thị là: huy động toàn lực các đoàn thể tôn giáo, chánh trị, quân sự và quần chúng để chống xâm lăng.”
Một Ban Chấp Hành được thành lập và vị Chủ Tịch được bầu là Hoàng Anh (bí danh của Đức Giáo chủ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ). Bác sĩ Lê Văn Hoạch đại diện cho Cao Đài Giáo làm Phó chủ tịch, Nguyễn Văm Sâm làm Cố vấn Chánh trị, Bùi Hữu Phiệt Cố vấn Chánh trị và Quân sự. Nhìn vào thành phần tham dự đại hội quân chính 20-4-1946 và Ban Chấp Hành Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp ta thấy rằng Cộng Sản Đệ Tam chỉ là thiểu số: Phạm Thiều, Mai Thọ Trân (chính trị), Phan Định Công, Huỳnh Tấn Chùa (quân sự). Khuynh hướng quốc gia chiếm đa số. Sự xuất hiện của Mặt Trận QGLH biểu lộ ‎ý chí của các tổ chức đấu tranh miền Nam muốn lấy lại vị thế chủ động kháng chiến tại Nam Bộ, không để cho Cộng Sản Đệ Tam thao túng. Thấy mình thế yếu, Nguyễn Bình và Phạm Thiều tuyên bố rút ra khỏi Mặt Trận QGLH và gia nhập Hội Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam (tức “Hội Liên Việt”) do Hồ chí Minh thành lập để tạo hoang mang trong quần chúng về hai danh xưng gần giống nhau: Liên Việt và Liên Hiệp.
Thật không may cho Miền Nam (và đây cũng là Đại Họa cho cả nước), sự kháng chiến của Mặt Trận QGLH vô cùng khó khăn vì tình trạng lưỡng đầu thọ địch. Trước mặt phải đối đầu với Pháp với võ khí tối tân có không lực yểm trợ và mạng lưới tình báo Phòng Nhì hữu hiệu, nhưng sau lưng là “Chiến Hữu Nguyễn Bình”, một “Chiến Hữu quá đặc biệt y khuôn Chủ Tịch HCM” sẵn sàng đâm sau lưng chiến hữu của mình kể cả lòn tin cho Pháp biết địa điểm đóng quân để Pháp oanh tạc. Hãy xem lại 4 đoạn sử hào hùng (Quyển Phật Giáo Hòa Hảo Trong Dòng Lịch Sử Dân Tộc của Nguyễn Long Thành Nam, trang 380-403):
1- Cộng Sản Không Kháng Chiến, Chỉ Giành Quyền.
2- Nguyễn Bình Và Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp.
3- Thế Kẹt Lịch Sử Và Chiến Thuật Gỡ Kẹt.
4- Chiến Lược Thoát Kẹt Của Miền Nam.
Hãy xem lại, cả Dân Tộc hãy xem lại, nhất là những thế hệ trẻ hãy xem lại, tất cả hãy xem lại để thương khóc những anh hùng yêu nước của miền Nam, để tự hào khắp Nam Trung Bắc nơi nào cũng có người yêu nước, và nhất là để thấu hiểu những thủ đoạn gian xảo và tàn ác của Nguyễn Bình đã trở thành tay sai của Hồ Chí Minh, mà Hồ Chí Minh lại hết lòng phục vụ Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế của Stalin, NGUỒN CỘI CỦA TẤT CẢ GIAN XẢO VÀ TỘI ÁC!
Cuộc Đối Thoại Nẩy Lửa
Nhưng Chiến Lược Thoát Kẹt của Mặt Trận QGLH bị biến cố đêm 16-4-1947 làm thay đổi tất cả. Vào đêm đó, Việt Minh Cộng Sản ám hại Chủ Tịch Hoàng Anh, tức vị Lãnh Đạo Phật Giáo Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ, sau một phiên họp tại địa điểm Tân Phú, Đồng Tháp Mười. Để biết kẻ chủ mưu ám hại nầy, xin đọc một trích đoạn của Cuộc Đối Thoại Nẩy Lửa giữa Nguyễn Bình và người chỉ huy Bình Xuyên là Bảy Viễn (Trích quyển Phật Giáo Hòa Hảo, của Nguyễn Long Thành Nam, trang 402):
...Bảy Viễn đứng lên tiến tới phía trước, bên hông đeo tòn ten khẩu súng lục:
-- Tôi xin nói.
Và Bảy Viễn nhìn thẳng về phía Nguyễn Bình;
-- Nếu tôi phải kể hết mọi tội ác mà đồng chí đã phạm đối với các chiến sĩ quốc gia, thì phải nói cả giờ đồng hồ mới hết. Tôi chỉ muốn nói đến một vụ: Tại sao đồng chí ám hại Giáo Chủ Hòa Hảo?
-- Đó là kẻ lúc nào cũng mưu tính diệt Cộng Sản và cá nhân tôi. Cho nên phải tiêu diệt.
-- Nói láo!
Bảy Viễn gầm lên. Nguyễn Bình cũng nổi giận đùng đùng. Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh phải can gián. Bảy Viễn lại lên tiếng:
-- Đồng chí tự tin bởi vì đồng chí nghĩ rằng kẻ khuất mặt không thể nói lên sự thật được. Nhưng còn tôi đây, tôi còn sờ sờ đây, thì tôi phải nói. Tôi kết tội đồng chí đã hai lần âm mưu ám sát chính tôi.
Nguyễn Bình bậm môi cười, phản công:
-- Không thể kết án vô bằng chứng như thế.Tôi thách đồng chí trưng bằng cớ ra đây.
-- Đồng chí lầm rồi. Tôi đang nắm trong tay một bằng cớ còn hùng biện hơn là nhân chứng nữa. Đó là tài liệu do chính tay đồng chí Nguyễn Bình k‎‎ý tên chỉ thị cho ban ám sát…
Bảy Viễn rút trong túi ra một mảnh giấy xếp tư, đã lấy được trong người của tên sát thủ năm 1947, và đặt tờ giấy đó lên mặt bàn. Nguyễn Bình lặng lẽ mở tấm giấy, nét mặt mờ đi, giận đến run lên. Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ cầm lấy tờ giấy, và chính ông cũng giận run…
Cuộc khẩu chiến nẩy lửa nói trên tất nhiên sẽ dẫn đến cuộc trao đổi bằng súng đạn nếu vị Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ không đủ đức độ và uy tín để hai bên cảm phục (Vị Chủ Tịch là Phạm Văn Bạch, thuộc Quốc gia Độc Lập Đảng, được đề cử do sự giới thiệu của Dương Văn Giáo và Trần Văn Ân). Sau cuộc va chạm trên, Bảy Viễn bỏ ra về lại Rừng Sát. Trên đường về, Bảy Viễn thoát khỏi ổ phục kích của Nguyễn Bình, nhưng chiến khu Rừng Sát cũng không về được vì Nguyễn Bình đã ra tay trước cho bộ đội đến đánh chiếm rồi!
Cuộc Trở Về Với Dân Tộc
Có một chiến hữu như Nguyễn Bình cam tâm làm “viên đá của Hồ Chí Minh ném vào Nam Bộ”, người hùng Bình Xuyên Bảy Viễn phải “dinh tê” vì biết không thể nào đứng chung trong hàng ngũ kháng chiến được. Đó là tình huống mà Thi sĩ Hoàng Phong Linh diễn tả bằng 2 câu trong bài thơ Tiếng Chim Bên Dòng Thác Champy để tưởng niệm hương hồn người em là chiến hữu Vũ Hoài tử nạn trên đường về phục quốc (Trong Thi Phẩm mang cùng tên, trang 18):
“Anh không sợ kẻ thù trước mặt
Mà ngại tình “chiến hữu” sau lưng”
Vì “ngại tình chiến hữu sau lưng”, nên biết bao nhiêu người yêu nước phải bỏ kháng chiến về thành, ngôn ngữ thời đó gọi là “Dinh Tê”. Những câu chuyện về dinh tê thật nhiều, như nghệ sĩ Tạ Tỵ dinh tê một mình, nhạc sĩ Phạm Duy dinh tê với cả gia đình, còn Bảy Viễn thì dinh tê với trọn cả bộ đội. Cơ may của lịch sử là vào ngày 20-5-1948, hai vị Chủ tịch Hội đồng An Dân ở Hà Nội và Huế là Đặng Hữu Chí và Trần Văn L‎‎ý vào Sài Gòn họp với Hội Đồng Nam Bộ cùng các nhân sĩ thuộc các đảng phái quốc gia và các giáo phái. Hội nghị cấp thời nầy k‎ý chung một Kiến nghị đặt tín nhiệm vào tướng Nguyễn Văn Xuân trong việc thành lập Chánh phủ Trung ương Lâm thời Việt Nam. Ngày 27-5-1948 Tân Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân trình diện nội các với Cựu Hoàng Bảo Đại, lúc đó còn tạm trú ở Hồng Kông. Ngày 2-6-1948 Thủ tướng Xuân công bố quốc ca và quốc kỳ Việt Nam. Tất cả những điều thuận lợi nói trên nâng cao UY THẾ CHÍNH TRỊ CỦA CỰU HOÀNG và đưa đến việc k‎ý Hiệp Ước Hạ Long ngày 5-6-1948 trên soái hạm Duguay-Trouin giữa Thủ tướng Xuân và Cao Ủy Pháp Émile Bollaert, dưới sự chứng kiến của Cựu Hoàng. Sau đó Cựu Hoàng qua Pháp để tranh đấu bằng đường lối ngoại giao khôn khéo với các Chính Đảng của Pháp và Cựu Hoàng đã thành công. Ngày 8-3-1949, Tổng Thống Pháp Vincent Auriol k‎ý với Cựu Hoàng Bảo Đại Hiệp Ước Élysée nhìn nhận nền độc lập và thống nhất của Việt Nam.
Ngày 17-6-1948, Bảy Viễn dẫn bộ đội về thành với Bản Tuyên Bố lời lẽ thật đẹp như sau (Trích Việt Luận Xuân Bính T‎‎ý 1996, bài Bình Xuyên - Bảy Viễn, tác giả Tiến Sĩ Nguyễn Văn Trần):
“Xét vì nạn độc tài đẫm máu đã lan tràn khắp Nam Bộ do bọn Nguyễn Bình cùng đảng Cộng Sản gây nên,
Xét vì trong bao nhiêu năm tranh đấu anh dũng khắp chiến khu, toàn thể chiến sĩ Bình Xuyên, chẳng những không được nâng đỡ, lại còn bị thiệt thòi và ngược đãi về mọi phương diện vì không chịu mạng lệnh của đảng Cộng Sản và nhứt là tên độc tài khát máu Nguyễn Bình,
Xét vì Bình Xuyên chỉ tranh đấu vì quyền lợi tối cao của Tổ Quốc với nguyện vọng duy nhứt là dành độc lập và thống nhất cho nước nhà,
Xét vì bọn Cộng Sản trong ba năm qua chỉ đưa nước nhà vào cảnh khổ sở lầm than tàn khốc,
Tôi, nhơn danh nhà lãnh đạo tối cao quân đội Liên Khu Bình Xuyên kiêm Khu Bộ Phó Khu 7 nước Việt Nam, tuyên bố:
Đứng lên cương quyết đối lập bọn Nguyễn Bình Cộng Sản độc tài,
Nhìn nhận chánh phủ Trung Ương Việt Nam,
Đặt hoàn toàn tín nhiệm nơi Hoàng Đế Bảo Đại trong sự vận động Độc Lập và để đem lại tự do, hạnh phúc cho giống nòi.”
Tổng Hành Dinh, ngày 17 tháng 6 năm 1948
Nhà Lãnh đạo Liên Khu Bình Xuyên,
Khu Bộ Phó Khu 7 nước Việt Nam.
Lê Văn Viễn
(Chữ k‎ý của Lê Văn Viễn, kèm theo “tạm không mộc”)
Đọc lịch sử thì xin đọc cho trọn vẹn. Bài viết Bình Xuyên – Bảy Viễn của Tiến Sĩ Nguyễn Văn Trần còn ghi thành tích kháng chiến của Bình Xuyên: “Chỉ trong năm 1947, Bình Xuyên thực hiện 42 cuộc hành quân, đánh lấy 16 đồn lính Tây, thu về được trên 200 vũ khí đủ loại, phá hủy nhiều cầu, 9 tàu bè võ trang và 4 đoàn xe công voa, bắt giữ 2 xà lúp, hạ tên xếp Tây nổi tiếng vùng Chợ Lớn, Trung úy Barazza.” Sau khi về thành, và quy tụ được đám thuộc hạ 900 người, Bảy Viễn lần lượt kiểm soát hết Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, phá vỡ mọi hệ thống đặc công và kinh tài của Việt Minh Cộng Sản. Người dân chỉ đóng thuế có một mối và được bảo vệ an toàn, không còn lo sợ cán bộ kinh tài Việt Cộng đến sách nhiểu như trước kia. Một năm sau, Bảy Viễn chiếm lại toàn bộ chiến khu Rừng Sát. Trọn quốc lộ 15 từ Sài Gòn đi Vũng Tàu trở thành khu an toàn.
Cuộc dinh tê của tướng Bình Xuyên Lê Văn Viễn, xin được gọi bằng một từ chính xác là “Cuộc Trở Về Với Dân Tộc” để ngăn chận “Làn Sóng Đỏ”. Đó là cuộc chuyển hướng chính trị đúng đắn trọn đầy chính nghĩa bởi lẽ sau ba năm kể từ lúc cướp được Chính quyền, Hồ Chí Minh và bè đảng đã đang tâm sát hại biết bao nhiêu người quốc gia yêu nước. Chiêu bài “Kháng Chiến Chống Pháp”, thật sự chỉ là chiêu bài, đã che dấu dã tâm của Hồ Chí Minh thực hiện “Cuộc Chiến Tranh Đánh Dân Tộc” để phục vụ Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế của Stalin.
Chỉ Vì Suy Luận Xốt-Xít
Nhân cuộc dinh tê tức là “Cuộc Trở Về Với Dân Tộc” của Bảy Viễn, xin mời qu‎ý bạn xét qua vài cuộc dinh tê khác được chép lại trong thời Kháng Chiến chống Pháp. Chúng ta có câu “Chuyện bé xé ra to” để diễn tả sự việc giống y như sách lược “Suy Luận Xốt-Xít” của Việt Cộng. Chuyện kể trong một buổi kiểm thảo do học sinh tổ chức, một giáo sư bị nêu “hiện tượng” là đã cho một học sinh một điểm quá cao vì thế vị giáo sư đó bị kết tội theo lối suy luận xốt-xít. Câu chuyện do một hiệu trưởng trường Trung học kể cho tác giả Hoàng Văn Chí và ông ghi chép lại trong quyển Từ Thực Dân Đến Cộng Sản (trang 167).
Hiện tượng: Anh chấm bài anh X và cho anh ấy một điểm quá cao.
Suy luận: 1.Anh tâng bốc anh X để cốt ‎‎ý gây chia rẽ giữa anh X và các học sinh khác trong lớp; 2.Học sinh đã chia rẽ thì chỉ lo cãi lộn, không chịu học hành; 3.Vì không lo học nên trình độ kém; 4 Trình độ học sinh kém thì phụ huynh học sinh không bằng lòng; 5 Họ sẽ bảo giáo dục dưới chế độ cụ Hồ không bằng giáo dục thời Pháp thuộc; 6.Họ sẽ cho rằng chế độ thực dân tốt hơn chế độ dân chủ cộng hòa; 7 Khi anh cho anh X một điểm quá cao, anh có dụng ‎‎ý làm tay sai cho thực dân Pháp.
Kết luận: Anh là tay sai đắc lực của thực dân Pháp và của đế quốc Mỹ.
Thật thảm thương cho số phận các nhà giáo dưới chế độ cụ Hồ! Chính trị xốt-xít đã thô bạo chen vào ngành mô phạm khiến cho sự phê điểm của thầy có thể biến thầy thành tội đồ của Dân Tộc. Tác giả Hoàng Văn Chí viết: “Những cuộc sỉ vả thầy giáo như vậy có thể nói là thường xuyên và không mấy thầy thoát khỏi. Vì vậy nên hồi năm 1950 - 51 vô số giáo sư bỏ hậu phương chạy vào thành”.
Tránh Xa Kẻ Sát Hại Đồng Bào
Chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, người thiết lập Đệ Nhị Cộng Hòa năm 1965, thì 20 năm trước, ông cũng tham gia cao trào toàn dân Kháng Chiến Chống Pháp. Nhờ có tài về quân sự, nên ông đã được đãm nhận chức Huyện Đội Trưởng, một chức vụ chỉ huy không nhỏ trong những ngày đầu kháng chiến. Nhưng rồi ông cũng từ bỏ kháng chiến vì không muốn đi theo kẻ có bàn tay dính máu đồng bào: cán bộ Việt Minh đã ám sát những thành phần đối lập và triệt tiêu Hội Đồng Bô Lão trong làng của ông. Ông từ bỏ chức Huyện Đội Trưởng của Việt Minh Cộng Sản, quay trở về với Dân Tộc, và trở thành một trong những sĩ quan đầu tiên của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam quyết tâm ngăn chận Làn Sóng Đỏ của Cộng Sản.
Bắt Y Sĩ Làm Công An
Các giáo sư bỏ hậu phương chạy vào thành vì không dám dạy “học sinh cụ Hồ”! Đến phiên các bác sĩ cũng bỏ cụ Hồ mà dinh tê. Câu chuyện cũ xảy ra trên 50 năm được Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên thuật lại cho Luật sư Lâm Lễ Trinh trong buổi Mạn Đàm ngày 1-9-2001 tại Quận Cam (Trích Tài Liệu của Làng Văn, số 248, trang 103). Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên thuật rằng vào năm 1951, trên 10 bác sĩ đã dinh tê về Hà Nội, ông viết: “Mùa hè năm đó, trong Đại hội Quân Y Liên khu 3 và 4 tại Thanh Hoá, BS Chủ tịch Hoàng Đình Cầu, sau này là Thứ trưởng Y tế và Viện trưởng Y Khoa Bắc Việt, dõng dạc chỉ thị: “Khi bạn vào một gia đình chăm sóc bịnh mà biết được gia đình này có tư tưởng phản cách mạng thì bạn phải tức khắc báo cho trạm công an gần nhất hay biết”. Vì không muốn tiếp tay làm “công an cho cụ Hồ”, các y sĩ có mặt trong buổi họp thoái thoát rằng hành động này trái với lời thề Hippocrate của họ khi ra trường, theo đó họ đã cam kết gạt bỏ mọi thành kiến khi chữa bịnh. Hoàng Đình Cầu liền phản pháo gay gắt: “Lời thề Hippocrate là một sự bịa đặt của tư bản phản động để gạt các anh”. Như giọt nước làm tràn ly, Nguyễn Lưu Viên nhận xét về câu nói đó như thế. Tất cả y sĩ nhìn nhau ngao ngán và từ đó, trong thâm tâm, ai cũng tìm cách thoát thân.
Nhắc lại khi Nhật đảo chánh Pháp đêm 9-3-1945, thì Nguyễn Lưu Viên đang học năm thứ 5 trường thuốc Hà Nội. Ông cùng Tổng Hội Sinh Viên hăng hái phát động Phong Trào Cứu Đói. Sau đó, ông cùng một số sinh viên gốc Nam Bộ tổ chức về Nam bằng xe đạp. Lúc Nam Bộ Kháng Chiến ngày 23-9-1945, ông làm phụ tá cho BS Nguyễn An Trạch tại tỉnh nhà Trà Vinh (BS Trạch là con rể của Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm). Sau đó ông lại ra Bắc bằng ghe bầu từ Bà Rịa đến Tam Quan và đi tiếp bằng đường hỏa xa ra Hà Nội. Ông đang tập sự ở nhà thương Bạch Mai, chưa kịp trình luận án Bác sĩ thì bùng nổ cuộc Toàn Quốc Kháng Chiến vào tháng chạp 1946. Ông cũng tham gia kháng chiến, từng là Quân y trưởng Trung đoàn 48 Thăng Long, sau cải tổ thành Sư đoàn 320, ông cũng là Quân y trưởng của Sư đoàn. Với câu hỏi của Lâm Lễ Trinh:
-- “Vì sao anh trở về thành? Năm nào? Bằng con đường nào? Có gặp khó khăn gì không?”
Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên trả lời rằng tin Cựu Hoàng k‎ý hiệp ước Hạ Long và thành lập chính phủ đã thúc đẩy ông và một số đồng nghiệp tìm cách rời bưng. Lại thêm lời tuyên bố gạt bỏ lương tâm người thầy thuốc của Hoàng Đình Cầu bằng cách phỉ báng lời thề Hippocrate là giọt nước đã làm tràn ly. Hơn nữa, ông phải về Hà Nội để học xong y khoa và vào Sài Gòn để trình luận án. Nguyễn Lưu Viên, người “Cựu Quân Y Trưởng” của Sư đoàn 320 viện cớ đi kinh l‎ý sát vùng tề, thoát khỏi Chiến khu 3 và dinh tê bằng ngả Phát Diệm. Thương cho thân ông, biết rằng con đường “Về Với Dân Tộc” đầy gian nan nguy hiểm, nên ông đã thủ sẳn trong người một liều thuốc độc arsenic phòng khi bị bắt, nhưng may mắn thay, ông không phải dùng đến!
Con Rận Cụ Hồ
Nhân đọc quyển “Vũ Đức Nghiêm, Anh Tôi”, sách do người em út trong gia đình là Vũ Trung Hiền viết về người anh nhạc sĩ tài hoa của mình, người viết nhặt được một “hạt kim cương lóng lánh” về dinh tê và xin được trích dẫn (Sách do Vũ Trung Hiền tự xuất bản và tái bản năm 1988, 1988, và 2005). Bên hương trà Tàu loại 313, hai anh em trong gia đình gia giáo họ Vũ, Đức Nghiêm và Trung Hiền, tâm tình và kể lại chuyện xưa… Đầu năm 1950, Vũ Đức Nghiêm 19 tuổi rưởi, đang học lớp Đệ Tam trường Nguyễn Thượng Hiền ở làng Ngô Xá, bên bờ sông Chu, Thanh Hóa. Khi một cán bộ Việt Minh đến trường chiêu mộ binh sĩ, thì Vũ Đức Nghiêm cùng với một số bạn học tình nguyện ghi tên theo học khoá 6 trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn. Có cả một cô bạn cùng lớp cũng tình nguyện ghi tên theo học ngành y tá cứu thương.
Đám tân binh cả trăm người đó đi bộ từ Thanh Hóa về hướng tây bắc, phải mất cả tháng trời, trèo đèo lội suối băng rừng mấy trăm cây số mới đến huyện Đại Từ, vùng rừng núi Thái Nguyên. Lúc đó là vào tháng 4-1950. Nhưng sau 4 tháng huấn luyện, tân binh Vũ Đức Nghiêm bỗng “ngộ”, ông nhờ “ở trong chăn nên mới biết chăn có rận”. Đây, Vũ Đức Nghiêm tâm tình với người em Vũ Trung Hiền về “Con Rận cụ Hồ” như sau:
“Họ chia thành phần. Những người là đảng viên, đoàn viên, được đối xử đặc biệt. Những người được coi là cảm tình viên, họ đối xử cũng tốt, tuy không bằng đối với đảng viên, đoàn viên. Nhưng với bọn anh, được coi như thành phần “quần chúng”, họ nghi kỵ, và kỳ thị ra mặt!”
Trên đường dinh tê, BS Nguyễn Lưu Viên mang theo một liều độc dược arsenic, còn Vũ Đức Nghiêm thì vừa đi vừa chạy, “vì sợ họ đuổi theo bắt lại, thì chỉ có nước tự tử nếu không muốn chết nhục”. Ngày đầu, đi suốt 13 tiếng không dám ngừng nghỉ, ông đi được bốn, năm mươi cây số. Phải mất 10 ngày đi ròng rã như vậy, ông mới về lại Thanh Hóa. Vũ Đức Nghiêm không muốn thành bộ đội cụ Hồ vì sợ bị “Con Rận cụ Hồ” hút máu, nên ông phải dinh tê. Sau ông nhập ngũ khoá 1 Trừ Bị Nam Định và đời binh nghiệp đưa ông đến cấp bậc sau cùng là Trung Tá Quân Lực VNCH với hệ lụy 13 năm 2 tháng 16 ngày trong Ngục Tù Cộng Sản. Quân Lực VNCH hào hùng đó, tuy bây giờ không còn nữa, nhưng đã phục vụ đắc lực Quốc Gia Việt Nam, Đệ Nhất Cộng Hòa, và Đệ Nhị Cộng Hòa. Quân Lực đó đã giúp xây dựng một nền dân chủ tuy còn non trẻ song cũng bảo đảm đủ các quyền tự do, do đó đã mang đến cho Dân Tộc và Đất Nước “Những Ngày Tháng Năm Tuyệt Đẹp Của Thế Kỷ!” Quân Lực đó, thật xứng đáng như lời Đảng Trưởng VNQDĐ Nguyễn Thái Học: “Không Thành Công Thì Thành Nhân.”
Tình Chiến Hữu Sau Lưng
Chiến sĩ Võ Đại Tôn tức thi sĩ Hoàng Phong Linh đã diễn tả “Tình Chiến Hữu sau lưng” trong 2 câu thơ:
“Anh không sợ kẻ thù trước mặt
Mà ngại tình chiến hữu sau lưng”
Trong thơ văn thì nhà thơ khéo dùng chữ “ngại” rất nhẹ nhàng, nghe như ta chỉ cần chú tâm đề phòng là được. Nhưng “Chiến Hữu Sau Lưng” hoàn toàn không phải là kẻ gian rình ăn cắp gà hoặc kẻ xấu đâm heo thuốc chó láng giềng của ta. Thật sự, trong toàn cảnh “Cuộc Chiến Tranh Của Hồ Chí Minh Đánh Dân Tộc”, “Tình Chiến Hữu Sau Lưng” có nghĩa là “Mời Đi Họp Rồi Thủ Tiêu” hoặc “Liên Hiệp Trước Mặt Sát Phạt Sau Lưng” gây ra cảnh máu chảy đầu rơi, xương tan thịt nát. Sau đây là những câu chuyện minh chứng “Tình Chiến Hữu Sau Lưng” với chiến hữu Nguyễn Bình trong thời Nam Bộ Kháng Chiến.
Vụ Sát Hại Nguyễn Văn Sâm
Nguyễn Văn Sâm giữ chức Cố vấn Chánh Trị nhưng thật sự là linh hồn của Mặt Trận QGLH. Lúc đó ông là chủ nhiệm nhật báo Quần Chúng, tiếng nói của Mặt Trận. Ngày 19-9-1947, Nguyễn Bình, với danh nghĩa là đảng viên của VNQDĐ, hẹn gặp ông để thảo luận về tình hình đất nước, nơi gặp gỡ là một địa điểm trong Chợ Lớn. Chiều hôm ấy, sau khi hoàn tất công việc trong toà soạn báo, Nguyễn Văn Sâm từ tòa soạn ở đường Tôn Thất Đạm (Chợ Cũ) ra bến xe bu‎‎ýt để vào Chợ Lớn. Khi vừa bước tới điểm hẹn với Nguyễn Bình thì ông bị Cao Đăng Chiếm của Đội Công Tác Thành bắn nhiều phát vào lưng chết liền tại chỗ. Thế là Chánh trị cục của Mặt Trận QGLH mất một đoàn viên hoạt động đắc lực. (Tài liệu trích quyển Tôi Giết Nguyễn Bình của Trần Kim Trúc, trang 233).
Vụ Phục Kích Chi Đội 6 và 7 của Cao Đài
Ngoài những vụ thảm sát tín đồ Cao Đài ở Quảng Ngãi trong 3 tuần lễ sau ngày 19-8-1945, số nạn nhân bị giết gồm chức sắc trong hàng giáo phẩm và tín đồ lên đến 2791 người, tại Nam Phần, Nguyễn Bình phục kích giết hai Chi Đội 6 và 7 của quân đội Cao Đài. Không đầy một tuần sau, Việt Minh bắt Phối sư Thượng Vĩnh Thanh, tên thật là Trần Quang Vinh, người sáng lập và tổ chức quân đội Cao Đài. Kể từ đó, chúng thẳng tay khủng bố Tòa Thánh Tây Ninh và các chi phái, bắt bớ, giam cầm, hoặc thủ tiêu tín đồ, quân sĩ, và chức sắc Cao Đài. (Tài liệu trích quyển Lớn Lên Với Đất Nước của Vy Thanh, trang 448).
Đánh Phá Chiến Khu Bình Quới Tây của Cao Đài
Đây là chiến thắng của Việt Minh Cộng Sản, kẻ thua không phải là Pháp mà là Bộ đội Cao Đài, tức là những lực lượng đầu tiên của Dân Tộc quyết tâm ngăn chận Làn Sóng Đỏ Cộng Sản! Chiến khu Bình Quới Tây nằm dọc sông Sài Gòn chỗ uốn khúc quanh co khi chảy qua khỏi cầu Bình Lợi. Nằm ở vị trí hiểm trở lại do Bộ Đội Cao Đài trấn đóng, Bình Quới Tây biến thành một trong những vùng quốc gia đầu tiên bảo vệ Sài Gòn. Nguyễn Bình cho người cài vào Ban Chỉ Huy của khu quốc gia nầy. Người được chọn là Hoàng Của, một tín đồ Cao Đài đã phản đạo để theo Cộng Sản! Phải mất nửa năm, Hoàng Của mới tạo được lực lượng “chém vè”. Khi thấy đã “chín muồi”, Việt Cộng ra tay “đại phá”. Vào 2 giờ chiều ngày 10-12-1947, giữa trận đá banh giao hữu, Việt Cộng nổ súng lệnh, bắn chết 5 sĩ quan Cao Đài, chụp bắt các phần tử trung kiên, và chiếm kho vũ khí. Hoàng Của và bè đảng thu gọn chiến lợi phẩm cả kho, vượt qua sông Sài Gòn và được bộ đội của Lương Đường Minh (sau nầy là Thiếu tướng Trần Hải Phụng) đón sẵn đưa vào mật khu. (Trích quyển Bảy Viễn, Thủ lĩnh Bình Xuyên của Nguyên Hùng, trang 153).
Sát Hại Chỉ Huy Trưởng “Bộ Đội Ba Dương”
Nếu trong quân đội có những cấp bậc Tướng, Tá, Úy, Hạ sĩ quan, v.v… thì trong tổ chức của Bình Xuyên có bốn cấp Long, Ly, Quy, và Phụng. Ba Dương tức Dương Văn Dương thuộc đẳng cấp Long, là “con Rồng Xanh số 1” trong 10 con Rồng của Bình Xuyên. Trong 10 con Rồng đó, Bảy Viễn đứng hàng số 9. Ba Dương là một triệu phú, làm chủ hai nhà máy xay lúa và một nhà máy dệt bao bố ở Chợ Lớn. Ông tinh thông hán học, luôn luôn “khăn đóng áo dài đen” như một ông đồ nho. Ông cũng là một tay võ nghệ tuyệt luân.
Có câu chuyện võ sĩ Sáu Cường vừa đả lôi đài ở Chợ Lớn và đoạt chức Vô Địch Nam Kỳ, thừa thắng xông lên, Sáu Cường tìm đến Ba Dương xin chỉ giáo. Trong giới võ lâm, “xin chỉ giáo” là cách nói lịch sự và khiêm nhượng có nghĩa là xin được đấu võ. Nếu là hai võ sĩ quyền Anh thượng đài, thì không bao giờ Ban Tổ Chức cho cáp độ giữa Sáu Cường và Ba Dương vì Ba Dương chỉ là “hạng lông” thấp hơn Sáu Cường 10 phân và nhẹ cân hơn Sáu Cường ít lắm cũng 20 k‎ý. Nhưng Ba Dương chấp nhận đấu! Sáu Cường nổi tiếng về thế Liên Châu, chỉ tung chân nhảy một lần mà có thể đá liên tiếp nhiều cú để hạ địch thủ. Khởi trận, hai người đứng cách nhau 6 thước. Ba lần, Sáu Cường nhún mình nhảy liên tiếp 3 bước toan dùng thế Liên Châu, thì Ba Dương tung chân đá gió khiến cho Sáu Cường ba lần đều phải thối lui. Sau ba lần như vậy, Sáu Cường chợt hiểu và vòng tay cúi đầu chịu thua và cám ơn Ba Dương đã không đá mình bị thương! Trận đụng độ hi hữu đó được truyền tụng trong giới võ lâm Nam Kỳ.
Với tinh thần mã thượng đẹp như vậy, không ai ngờ Ba Dương lại bị ám hại bởi tay Từ Văn Ri, tức Henry Từ! Vậy Henry Từ là ai? Là một người không phải gốc Bình Xuyên, được Nguyễn Bình đưa vào làm Trung Đoàn Phó cho Bảy Viễn. Khi Bảy Viễn được phong Khu Phó Khu 7 mới giao Trung đoàn 2 Bình Xuyên cho Henry Từ. Ba Dương bị sát hại ở Gò Công, vào lúc đó có 2 thám thính cơ L19 của Pháp đang bắn xuống và Ba Dương chạy quanh cây rơm lẫn tránh phi cơ dễ dàng. Henry Từ cũng đang núp gần đấy và xác nhận rằng Ba Dương bị phi cơ Pháp bắn chết. Nhưng chỉ cần coi vết thương, anh em trong Bộ Tham Mưu của Trung Đoàn 25 biết rằng Henry Từ nói dối. Vết thương phải do một người nằm dưới đất bắn lên vì vết đạn từ sau gáy trổ ra ở đỉnh đầu! Anh em Bộ Tham Mưu Trung đoàn 25 nhân dịp đến thăm Ba Dương mấy ngày trước là những nhân chứng nhìn vết thương mới quả quyết Henry Từ là thủ phạm, nhưng không dám tiết lộ vì sợ bị giết để bịt miệng. Chỉ vài ngày sau khi Ba Dương từ trần thì Từ Văn Ry dẫn Trung Đoàn 2 rời khỏi hàng ngũ Bình Xuyên về với Nguyễn Bình!
Sát Hại Phạm Hữu Đức
Phạm Hữu Đức, tức Tư Đức, nguyên là Tư lịnh phó Đệ Tam Sư đoàn của Nguyễn Hòa Hiệp, từng là nhân viên cao cấp trong Hiến Binh Nhật, đã từng nuôi và bảo bọc Trần Văn Giàu trong nhà để khỏi bị Nhật lùng bắt. Trong Mặt Trận QGLH, Phạm Hữu Đức giữ chức Tư Lịnh Trung đoàn 5, thuộc VNQDĐ. Nguyễn Bình áp đặt Kiều Mãnh Giá làm Tiểu đoàn trưởng của Trung đoàn 5. Đến ngày 1-8-1948, Giá bất thần uy hiếp Tư Đức, buộc Tư Đức phải theo y về trình diện Khu Trưởng Khu 7, lúc đó là Huỳnh Văn Nghệ. Mặc dầu bị thất thế, Phạm Hữu Đức rút súng nhanh như điện chớp bắn hạ Kiều Mãnh Giá nhưng toán nằm vùng của Giá phục kích cách Tổng Hành Dinh không đầy 100 thước xả súng bắn hạ Tư Đức. Trước biến cố bất ngờ, các nhân viên cao cấp của Trung Đoàn 5 đều bị bắt, và sau đó bị tra tấn dã man và bị thanh toán.
Sát Hại Bùi Hữu Phiệt
Bộ Đội An Điền, sau trở thành Trung Đoàn 25 Bình Xuyên, được thành lập tại tổng An Điền, quận Thủ Đức do Trần Văn Quới, một người dân địa phương là sinh viên luật đảng viên Đại Việt từ Hà Nội trở về quê. Thành lập xong, đang chỉ huy bộ đội chống Pháp thì Trần Văn Quới được lịnh Đảng Trưởng Trương Tử Anh gọi ra Bắc. Quyền chỉ huy Bộ Đội An Điền được trao lại cho Bùi Hữu Phiệt, một nhà cách mạng quốc gia vừa từ Côn Đảo trở về. Nhận quyền chỉ huy Bộ Đội An Điền, tức Trung Đoàn 25 Bình Xuyên, Bùi Hữu Phiệt liền gia nhập Đại Việt. Trong Mặt Trận QGLH, Bùi Hữu Phiệt là Cố vấn Chánh trị và Quân sự.
Nhắc lại ngày 15-5-1948, Bảy Viễn với tư cách Khu Phó Khu 7 nhận lệnh của Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ mời lên họp với Khu Trưởng là tướng Nguyễn Bình. Linh cảm chuyến phó hội vô cùng nguy hiểm, Bảy Viễn mang theo 200 tay súng thiện nghệ xử dụng toàn súng tối tân. Cuộc hội họp không bình thường đó đưa đến cuộc đấu khẩu nẩy lửa xém dẫn đến trận trao đổi bằng súng đạn như trên vừa trình bày. Trên đường về Bảy Viễn bị phục kích nhưng thoát được. Trong khi đó tại Rừng Sát, đạo quân nằm vùng Nguyễn Văn Hay của Nguyễn Bình mặc sức tung hoành theo mưu kế đã tính trước. Bùi Hữu Phiệt và Bộ Tham Mưu của ông bị sát hại! (Theo quyển Tôi Giết Nguyễn Bình của Trần Kim Trúc, trang237).
Hiện trường chánh trị đến đây đã rõ ràng: ẩn hiện trong hàng ngũ kháng chiến chống Pháp có kẻ gian người ngay, có kẻ phản trắc người trung nghĩa, có kẻ ác giết người và người hiền bị hãm hại. Dân Tộc đã nhìn ra nhóm Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế của Hồ Chí Minh theo Stalin là phe ác độc, phản dân hại nước. Tướng Bình Xuyên Lê Văn Viễn đã sớm nhận thức chính nghĩa nên đã Trở Về Với Dân Tộc. Đến đây, xin ghi lại nhận xét của một nhân chứng là học giả Hứa Hoành: “Chưa có cuộc kháng chiến chống ngoại xâm nào trong lịch sử diễn ra kỳ lạ như vậy! Giặc ngoài không đánh, lại tìm người đồng hương khác chính kiến thủ tiêu một cách dã man. Ai có sống trong thời kinh hoàng đó mới rõ dã tâm của bọn Cộng Sản.”
Nhưng biết bao người vẫn một lòng theo đuổi mục tiêu kháng chiến, rốt cuộc thành nạn nhân của những “Chiến Hữu Sau Lưng” của mình. Trong số đó, người viết xin tiết lộ, có ông Lê Văn Hạo! Ông là một người quốc gia yêu nước, từng là Đoàn Trưởng Thanh Niên Tiền Phong ở tỉnh Biên Hòa, thuộc đảng Dân Chủ, đồng một thời với Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước, Huỳnh Văn Tiểng… , thuộc gia đình gia thế ở làng Bình Sơn, Biên Hòa, đối với tướng Huỳnh Văn Nghệ ông là bậc đàn anh. Ông tham gia kháng chiến ở Chiến Khu D ngay từ ngày Nam Bộ Kháng Chiến, nhưng đến 1951, ông bị sát hại vì bị ghép tội làm gián điệp cho Pháp! Viết lại lịch sử ở giai đoạn này, từ 1945 đến 1948, chỉ trong 3 năm Hồ Chí Minh, Trần Văn Giàu, Nguyễn Bình tự chứng tỏ là tội đồ của Dân Tộc vì tay đã vấy máu của biết bao nhiêu người quốc gia yêu nước!
K‎‎ý Tên Bán Nước Bằng Bàn Tay Phạm Văn Đồng
Có một câu nói của Hồ Chí Minh vào năm 1946 mà sau này Đảng không muốn nhắc lại. Vào năm đó, Hồ Chí Minh đã phát biểu (Trích Lịch Sử Việt Nam 1940-2007 của Trần Nhã Nguyên, trang 738): “Thà ngửi cứt thằng Tây trong thời gian ngắn còn hơn là ăn cứt Tàu (hay “đạp cứt Tàu”?) suốt cả đời”(It is better to sniff French shit for a while than to eat China’s for the rest of our lives). Đó là lúc Hồ Chí Minh lập mưu thương thuyết với Pháp mời quân Pháp đến Bắc Bộ để thay thế quân Tiếp Phòng Tàu.
Hai năm sau đó, vào mùa xuân năm 1948, Hồ Chí Minh, dưới ẩn danh Trần Dân Tiên, đã viết rằng lúc ông mới lên 15 tuổi, ông đã biết nhận xét về Phong Trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu: “Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”.
Hồ Chí Minh đã nói và viết như thế để chứng tỏ là người lãnh đạo tài ba đã biết hiểm họa của kẻ thù truyền kiếp phương Bắc cùng sự nguy hiểm của cảnh “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. “Bác” đã nói và viết như thế kia mà! Cho nên Dân Tộc đã đặt hết lòng tin vào “Bác, Cha Già của Dân Tộc”. Nhưng đâu là sự thật? Muốn tìm sự thật, phải nhìn thẳng vào những việc Hồ Chí Minh đã làm! Tham khảo quyển Tướng Đi Đêm của tác giả Trần Nhu, Ban Biên Tập của Bán nguyệt san Tự Do Ngôn Luận (số 6o ngày 1-10-2008, trang 1) trích dẫn lời phát biểu của Hồ Chí Minh trong cuộc họp của Bộ Chính Trị trước khi Phạm Văn Đồng ra Công Hàm bán nước ngày 14-9-1958. Hồ Chí Minh nói:
“Trung Quốc giúp chúng ta cuộc kháng chiến chống Pháp chín năm ròng về đủ mọi phương diện. Họ viện trợ cho chúng ta từ cây kim, sợi chỉ, trang bị quân đội ta từ đầu tới chân: mũ Trung Quốc, quần áo Trung Quốc, giầy Trung Quốc… Bây giờ kháng chiến thắng lợi, họ muốn một vài hòn đảo nhỏ, lẽ nào ta từ chối”.
Đấy, lời phát biểu của Hồ Chí Minh năm 1958, lời phát biểu này vô cùng quan trọng, xin viết lại cho thật rõ ràng: “Bây giờ kháng chiến chống Pháp thắng lợi, Trung Quốc muốn quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, lẽ nào ta từ chối”. Về sự trợ giúp VN của Trung Quốc, tác giả Nguyễn Văn Lục đã tường thuật đầy đủ. Trong bài viết Hãy Can Đảm Định Hướng Đi Ra Biển (Bán nguyệt san Tự Do Ngôn Luận số 73, ngày 15-4-2009, trang 23), Nguyễn Văn Lục nghiên cứu nhiều tài liệu về phía Trung Quốc và viết:
“Tháng 1-1950, Hồ Chí Minh đích thân bí mật đến Bắc Kinh, yêu cầu Trung Ương đảng CS Trung Quốc viện trợ VN chống Pháp… “
“Bước đầu tiên viện trợ VN là để khai thông giao thông biên giới Trung Việt, vì có thế vật tư viện trợ mới có thể chở sang VN thuận lợi”.
“Sau khi kết thúc thắng lợi Chiến Dịch Biên Giới, ngày 14-10-1950, Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng chí Mao Trạch Đông: “Chúng tôi đã thắng lợi hoàn toàn chiến dịch Thất Khê-Cao Bằng. Nguyên nhân lớn nhất của thắng lợi này là sự viện trợ tận tình của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, đảng Cộng Sản Liên Xô… Tóm lại tôi cho rằng thắng lợi này là thắng lợi đường lối Mao Trạch Đông, Cách Mạng Quốc Tế chủ nghĩa”.
Tác giả Nguyễn Văn Lục tham khảo một tài liệu khác của Trương Quảng Hoa về toàn bộ sự giúp đỡ của Trung Quốc cho VN đưa đến chiến thắng Điện Biên Phủ:
“Chỉ nhắc một điều thôi, phái đoàn Phạm Văn Đồng đi phó hội Geneva gồm 30 người đến Bắc Kinh. Bọn họ không có ai có lấy một bộ áo veste. Trung Quốc đã may cho mỗi người hai bộ veste để đi phó hội Geneva”.
Những đoạn trích dẫn trên chỉ là một phần nhỏ Nguyễn Văn Lục đã tham khảo, nhưng đã làm cho ông phải than lên rằng: “Lệ thuộc đến thế thì thôi!” và ông hạ bút kết luận: “Từ Hồ Chí Minh đến mọi cấp lãnh đạo Cộng Sản đều đi bằng hai đầu gối sang Bắc Kinh, ăn mày từng bát cơm, manh áo, khẩu súng nên ngày nay nó mới ra nông nỗi này. Cứ trách Lê Chiêu Thống, có thiếu gì thứ Lê Chiêu Thống ngày nay!”
Vâng, đúng vậy, có thiếu gì thứ “Lê Chiêu Thống Ngày Nay”! Trước tiên, Hồ Chí Minh là “Lê Chiêu Thống Đầu Sổ” vì ông đã khai trương “Cửa Hàng Bán Nước”. Dịch vụ “Bán Nước” quá ư lợi lộc và dễ làm nên các “Lê Chiêu Thống Nối Nghiệp” như Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Trần Đức Lương, Nguyễn Tấn Dũng, v.v… đều giàu bạc tỷ Mỹ Kim cả nên ai ai cũng cố gắng giữ gìn “Sự Nghiệp Bán Nước của Bác”!
Theo những điều luận giải trên, Hồ Chí Minh đã quyết định trả ơn cho Trung Quốc bằng “một vài hòn đảo nhỏ”, thì Thủ tướng Phạm Văn Đồng phải nhất trí với Bác thôi. Bởi thế, như đã trình bày ở Chương 5 Tư Tưởng Hồ Chí Minh, người viết xin lặp lại: “Cho nên việc Thủ Tướng Phạm Văn Đồng k‎ý Công Hàm giao hai Quần đảo cho Trung Quốc được tác giả Hoàng Quốc Kỳ diễn tả là do Hồ Chí Minh cầm tay Phạm Văn Đồng k‎ý, giống như cô giáo cầm tay em bé lớp vỡ lòng viết những chữ A, B, C đầu đời. Hồ Chí Minh đã k‎ý tên bán nước bằng bàn tay của Phạm Văn Đồng! Thêm một lần nữa, Bác đã chơi trò ném đá dấu tay!”
Đến bây giờ, sau Mùa Bịt Miệng 2007, sau mùa Phá Tòa Khâm Sứ 2008, đến Mùa Ngư Dân Miền Trung Bị Cấm Biển 2009, nhắc lại câu nói năm 1946 về “Cứt Tây Cứt Tàu” rồi nối kết với lời phát biểu năm 1958 về “Lòng Nhớ Ơn Trung Quốc” cũng của Hồ Chí Minh, bây giờ có ai ngờ được Bác Hồ nhà ta mưu lược đến thế mà phải bị ngửi cả cứt Tây và ăn luôn cả cứt Tàu.
Như thế thì câu nói của Bác Mao “Trí Thức Không Bằng Cục Phân” có sai không? Xin trả lời: “Sai! Hoàn toàn sai! Câu nói của Bác Mao “Trí Thức Không Bằng Cục Phân” sai, vì lẽ Bác Hồ không phải là trí thức!” Chuyện Bác Hồ không bằng cái gì thì kệ Bác Hồ, nhưng sự việc Ngư Dân miền Trung bị “cấm biển” và bị “Tàu Lạ” đâm chìm thì ai chịu trách nhiệm? Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Thủ Tướng Phạm Văn Đồng có chịu trách nhiệm trước lịch sử hay không?!
Ném Viên Đá Khổng Lồ Vào Miền Nam
Người Hùng Điện Biên Thứ Nhất
Trong chiến dịch CCRĐ, “Nhân Vật Vĩ Cuồng” Hồ Chí Minh đã ném viên đá khổng lồ vào Miền Bắc, gây tang tóc trên khắp 3563 ngôi làng. Chiến dịch chỉ chấm dứt khi Hồ Chí Minh thấy đã giết đủ số người cần giết! Trong số nạn nhân bị sát hại có vô số người yêu nước có công kháng chiến. Xin đan cử một trường hợp. Đó là pháo thủ Phạm Đình Sơn thuộc Trung đoàn sơn pháo 675, đã tham dự trận Điện Biên, 2 lần bị thương. Lần bị thương thứ hai phải xé vạt áo rịt vết thương ở cánh tay, rồi tiếp tục chiến đấu, máu chảy đỏ người. Cũng trong chiến trận Điện Biên, gia đình anh Sơn có 5 người tham gia trong đoàn dân công (gồm mẹ, chị dâu, và 3 người cháu), và 2 đã chết trong công tác. Năm 1955, anh Sơn phục viên, gia đình bị đấu tố, gia sản bị tịch biên. Cha phải làm chòi lá ở giữa đồng trú ngụ. Mẹ thắt cổ chết vì nhục. Sơn vào Sài Gòn năm 1977, hai năm sau đưa gia đình vượt biên, hiện cư trú ở Naple, miền Nam nước Ý.(Phạm Đình Sơn được sử gia Cao Thế Dung phỏng vấn ngày 20-6-1988 và viết trong quyển Việt Nam Ba Mươi Năm Máu Lửa, trang 411).
Người Hùng Điện Biên Thứ Hai
Hồ Chí Minh không mang tự do cho Dân Tộc cho nên pháo thủ Phạm Đình Sơn phải vượt biên tìm tự do, nhưng một người hùng Điện Biên khác là Trung tá Pháo binh Hoàng Tiến Như không được may mắn như vậy. Ông chết trong trại tập trung Hoàng Xu Phì ở Hà Giang, đã chết rồi mà còn bị tên đại úy quản giáo, giống như loài khỉ vượn chưa kịp hóa kiếp thành người, trong cơn giận dữ, rút dao găm “đâm ngoáy” vào đôi mắt chưa chịu nhắm hẳn. Chuyện kể sau chiến thắng Điện Biên, người hùng Trung tá Hoàng Tiến Như về thủ đô, ngực mang đầy huy chương, nhưng lại mất niềm tự do lớn nhất của đời mình: ông không cưới được người mình yêu! Nàng là Lê Thị Phượng, sinh viên Đại học Văn khoa năm thứ hai bị đuổi học vì tham gia phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm nên Đảng không cho phép ông cưới nàng! Để đi theo tiếng gọi của con tim, Trung tá Như xin ra khỏi Đảng. Thảm kịch đời ông bắt đầu. Ông bị bắt đưa về trại tâm thần Sơn Tây, bị tra tấn dã man gần một tháng, và tiếp tục bị tra tấn ở trại tập trung Hoàng Xu Phì đến khi lê lết, quằn quại, sống như một cái xác không hồn. Đúng một năm, khi gượng đi lại được, sau mấy tháng lao động đền tội, ông bị rút gân chân, lột từng mảnh da đầu, cắt trụi tai, và để cho cái chết đến từ từ trên tấm thân tàn phế! Câu chuyện bi thảm này được viết lại trong quyển Địa Ngục Sình Lầy (trang 201-264), tác giả Trần Nhu là bạn đồng tù đã nhận xét: “Đời tù! Sống cực hình, chết lại càng cực! Và thê thảm. Tôi chưa hề thấy cái chết nào ghê rợn như cái chết của viên Trung tá Pháo binh Điện Biên Phủ.”
Đất Nước vừa mới bước vào nền “Dân Chủ Cộng Hòa” của Hồ Chí Minh mà đã đầy tang tóc! Những người như Phạm Đình Sơn, Hoàng Tiến Như, và biết bao nhiêu người khác nữa… bằng tấm lòng yêu nước vô biên và bằng xương máu, đã giúp Hồ Chí Minh xây dựng nền Dân Chủ Cộng Hòa mà đã bị đối xử tệ bạc nếu không bị sát hại tàn nhẫn! Bây giờ, Dân Tộc chỉ có thể ném vào mặt Hồ Chí Minh hai chữ “PHẢN BỘI” mà thôi! Người chết thì đã yên nghỉ, nhưng trong những người còn sống, chứng nhân của Lịch Sử, lương tâm có bị “đâm ngoáy” hay không? Ít nhất cũng có một người! May thay, hào quang Hồn Thiêng Sông Núi còn đủ tỏ rạng để soi đường! Người đó là nhà văn Tô Hoài
“Chuyện Ba Người” Biến Thành “Ba Người Khác”
Trong những “bầy đàn”, những “đám đôm” của 48.812 ông đội trong CCRĐ, nhà văn Tô Hoài là 1 và ông ta đã tự thú rằng vào lúc ngoại tam tuần, ông là “một tên đểu cáng trong cái tập thể “Cán Bộ Cải Cách” tàn ác vô nhân”. Đến lúc thất thập cổ lai hi, bị lương tâm cắn rứt và muốn được thanh thản trước khi từ giả cõi đời, nhà văn Tô Hoài cố gắng hoàn thành quyển “Chuyện Ba Người” về CCRĐ. Định xuất bản vào năm 1993, nhưng sách bị cấm. Mười ba năm sau, đến năm 2006 lúc ông 87 tuổi, sách mới được phép in với tựa đề là “Ba Người Khác”. Nhưng lần này, người ta đề nghị ông cần sửa lại đôi chút rằng “Những sai lầm trong CCRĐ là do những phần tử bất hảo nấp trong Đảng chứ không phải là bản chất của Đảng. Nhân vật tàn ác nhất trong truyện là một tay bất hảo, sau này lộ nguyên hình là một tay chiêu hồi, chạy theo ôm chân đế quốc Mỹ”.
Sửa làm chi, đính chính mà làm chi, chỉ là việc thừa! Sự thật rất rạch ròi trong Lịch Sử. Trong chiến dịch CCRĐ “đào trốc” Dân Tộc, kẻ tàn ác nhất không phải là nhân vật nào trong truyện của Tô Hoài cả. Kẻ tàn ác nhất đó đã nấp thật sâu và leo cao nhất trong Đảng, đó là C.B, là tác giả đã viết bài “Địa Chủ Ác Ghê”. Mãi đến năm 2007, nhờ công sưu tầm của Nguyễn Quang Duy, Dân Tộc mới biết C.B. chính là Hồ Chí Minh, chứ không phải ai khác! Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là “BỰ ĐỘI”, là Ông Đội lớn nhấtvà tàn ác nhất, bởi lẽ TỘI ÁC của ông là tội ác của cả 48.812 ông đội cộng lại (Trong 1 bài viết, Dương Thu Hương đã dùng chữ “BỰ GIÒI”). Cuối cuốn truyện, nhà văn Tô Hoài “tự kiểm thảo” bằng câu: “Chúng tôi đều nhơ nhớp cả, có gì mà nói… ” Nhưng Thông Điệp nhà văn Tô Hoài để lại cho Dân Tộc thật đáng ghi, và thật đáng qu‎ý. Theo Tô Hoài thì “rõ ràng không có Cách Mạng, không có Giải Phóng Giai Cấp, không có Mình Vì Mọi Người, không có Đổi Đời, v.v… mà chỉ có khủng bố, tra tấn và hành hình dã man, sau đó là giành giựt chiến lợi phẩm. Đây là hành vi vô đạo của một tập thể vô học mà Karl Marx đã đặt tên là “Giai Cấp Vô Sản Lưu Manh”.
Chuyện Giải Phóng Miền Nam
Ném đá vào Miền Bắc xong, như trên đã dẫn giải, đến ngày 19-12-1960, Hồ Chí Minh thành lập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam để chính thức ném đá vào Miền Nam. Vẫn bổn củ soạn lại, vẫn những việc làm trong bóng tối để sát hại Dân Tộc ở phương Nam, vẫn những việc tranh dành quả thực vô cùng bẩn thỉu và hèn hạ! Về việc chuẩn bị “những viên đá”, ngay sau ngày 20-7-1954, bàn tay lông lá của Đảng đã sắp xếp hết mọi vụ: từ việc Lê Duẩn lên tàu tập kết về Bắc buổi sáng, đến tối mới lén xuống tàu ở lại miền Nam, việc chôn dấu vũ khí, việc để lại các cán bộ nằm vùng, việc tổ chức hàng ngàn hàng vạn đám cưới tập thể theo cách chạy tang giữa cán binh sắp tập kết ra Bắc cùng các cô thôn nữ trong làng… !
Chuyện Giải Phóng Miền Nam là chuổi dài những hành động ném đá dấu tay ám muội và thâm độc. Việc Hồ Chí Minh phát biểu “Miền Nam trong trái tim tôi” hay việc Bác trồng “Cây vú sữa biểu tượng của Nam Bộ” để ngày ngày vun phân tưới nước, tất cả đều là trò BỊP BỢM đáng vất vào sọt rác lịch sử! Cho đến khi các “Bự Giòi của Bắc Bộ Phủ” vào vơ vét vui vẻ về làm cho miền Nam nghèo, nghèo, nghèo, thì Dân Tộc mới rạch ròi:“Tất cả đều nhơ nhớp cả, có gì mà nói!”
Chuyện “Hai Xe Ngựa”
Hai Xe Ngựa là nhân vật thật nhỏ gần như vô danh, đã đóng một vai thật nhỏ trong Canh Bạc Bịp lớn nhất trong Lịch Sử VN. Nhắc lại chuyện Trương Như Tảng, từ Sài Gòn được giao liên VC đưa vào Bưng để họp, đến ngày 18-12-1960 ông gặp Hai Xe Ngựa, ông không biết là ai, do Huỳnh Tấn Phát đưa đến để trao “tài liệu” cho ông học tập trước. Đó là Cương Lĩnh Mặt Trận do Bộ Chính Trị Hà Nội soạn. Trong Hồi k‎ý “Mémoires d’un Việt Cộng”, Trương Như Tảng thuật rằng: “Ông được ở riêng một phòng có màn che kín, ăn cơm một mình, có người được cắt ra lo mọi việc cho ông. Ra khỏi phòng ông phải bịt mặt. Ông chỉ được tiếp xúc với Hai Xe Ngựa mà thôi.”
Ông họp suốt ngày 19 và cả đêm hôm đó, họp cùng với một số người mà ông không biết là ai vì mỗi người được xếp ngồi riêng trong một buồng nhỏ, có màn che kín, không ai nhìn thấy ai. “Tài liệu” Hai Xe Ngựa đưa cho ông, có chỗ ông không thực sự đồng tình, nhưng vì thấy không có ai đưa ‎ý kiến hay lập trường khác để bàn cãi nên ông cũng nín thinh. Buổi họp kéo dài đến nửa đêm, mọi người đồng thanh biểu quyết chấp thuận tuyên ngôn, chương trình, cờ quạt, đúng theo “tài liệu” Hai Xe Ngựa, không người nào nói không! (Chuyện Hai Xe Ngựa được trích dẫn từ quyển Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm, và Mặt Trận Giải Phóng, tác giả Hồ Sĩ Khuê, trang 365)
Chuyện Quốc Gia Đại Sự
Đại Hội thành lập Mặt Trận DTGPMN xảy ra như thế đó. Những “chánh khách” được giao liên đưa đến Đại Hội như Trương Như Tảng đều bịt mặt và nhất trí biểu quyết chấp thuận Cương Lĩnh soạn thảo từ Hà Nội. Ông Tảng và bạn bè của ông ưng và chịu nhận là thành viên của Mặt Trận mà không biết xuất xứ bản Cương Lĩnh là do Bộ Chính Trị Hà Nội thì làm sao họ biết được những chuyện “Quốc Gia Đại Sự” được trình bày sau đây. Nhắc lại vào thập niên 50, Mao Trạch Đông đã từng khuyên các nhà Lãnh Đạo Miền Bắc về bài học “Cái Chổi và Đống Rác”. Theo Mao, thì miền Nam là đống rác, tạm thời hãy để yên, vì chưa đến lúc chổi phải quét đến.
Thái độ của Trung Cộng chỉ thay đổi từ sau khi Phạm Văn Đồng k‎ý Công hàm 14-9-1958 nhìn nhận lãnh hải mới do Bắc Kinh công bố ngày 4-9-1958. Ngày 11-3-1959, Trung Cộng cực lực đả kích Chủ nghĩa Đế quốc xâm lược của Mỹ. Đến tháng 10-1959, Phạm Văn Đồng dẫn một phái đoàn qua Bắc Kinh xin viện trợ quân sự để đánh miền Nam Một tháng sau, Bắc Kinh cử Luo Riqing, Tham mưu trưởng Không quân Trung Cộng, cầm đầu một phái đoàn qua Việt Nam nghiên cứu tình hình với chỉ thị cho phái đoàn này là Trung Cộng sẽ thỏa mãn bất cứ những gì Hà Nội yêu cầu nếu Trung Quốc có khả năng. Phái đoàn Luo Riqing đến Hà Nội ngày 10-11-1959 và tham quan 5 quân khu, phi trường, cửa biển, và các nhà máy. Phạm Văn Đồng, nhân danh Bộ Chính Trị Đảng LĐVN, ba lần tuyên bố đặt mọi hy vọng ở sự giúp đỡ của Bắc Kinh. Tháng 5-1960, các lãnh tụ Trung Cộng và Cộng Sản Bắc Việt bắt đầu thảo luận chiến lược áp dụng tại miền Nam VN. Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình muốn có một chiến thuật linh động: tại thành thị sẽ mở mặt trận chính trị; trong khi tại nông thôn sử dụng quân sự… (Sử liệu Chuyện Quốc Gia Đại Sự được trích dẫn từ quyển Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng, tác giả Chính Đạo, trang 350)
Từ việc nhỏ nhặt như sắp xếp Hai Xe Ngựa để chăm sóc và hướng dẫn Trương Như Tảng đến chuyện quốc gia đại sự như việc Phạm Văn Đồng đi Bắc Kinh cầu viện Trung Cộng, tất cả đều do Bộ Chính Trị Cộng Sản quyết định, tất cả đều được sắp xếp trong âm mưu “Ném Đá Dấu Tay” của Hồ Chí Minh. Tóm lại, cái gọi là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam thực ra chỉ là trò hề chính trị của Bắc Bộ Phủ, và Chủ tịch Luật sư Nguyễn Hữu Thọ chỉ là thân phận một “Viên Đá” để Hồ Chí Minh ném vào miền Nam. Nhưng Hồ Chí Minh còn ném biết bao viên đá khác nữa, danh sách thật dài, xin kể: Đảng Nhân Dân Cách Mạng (Chủ Tịch Võ Chí Công), Ủy Ban Bảo Vệ Hòa Bình Thế Giới Miền Nam (Chủ tịch Phùng Văn Cung), Liên Minh Dân Chủ Dân Tộc Và Hòa Bình Việt Nam (Chủ tịch Luật sư Trịnh Đình Thảo), Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (Chủ tịch Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát).
Những cơ cấu và nhân vật kể trên chỉ là bộ mặt tuyên truyền để tô son điểm phấn lòe loẹt bên ngoài, thành phần chính yếu của Mặt Trận toàn là đảng viên nòng cốt Cộng Sản, những Ủy viên Trung ương hay trong Bộ Chính Trị, xin kể:
- Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Tổng Tư Lệnh Lực lượng Giải Phóng
- Tham Mưu Trưởng: Trung tướng Trần Văn Trà
- Đệ nhị Tham Mưu Trưởng: Trung tướng Trần Nam Trung (kiêm Chỉ Huy Trưởng Cục Hậu Cần)
- Tư Lệnh Phó kiêm Chính Ủy cục R: Trung tướng Trần Độ
Chỉ Là Đá Thôi
Đáng là “Kim Cương Của Dân Tộc” nhưng bất hạnh thay, họ đã bị mai một! Kẻ thì bị ám sát một cách hèn hạ, kẻ thì bị “đào trốc” không thương tiếc, kẻ thì bị biến thành những “Viên Đá” để Hồ Chí Minh ném vào Dân Tộc! Mất đi rồi cả một thế hệ tài hoa: Luật Sư Nguyễn Mạnh Tường đã đậu Tiến sĩ hai khoa Luật và Văn Chương vào năm 22 tuổi, Học giả Phạm Quỳnh đã giúp Sứ quán Pháp ở Bắc Kinh phiên dịch quyển Histoire de la guerre của Gabriel Hanoteaux ra Hán văn, Triết gia Trần Đức Thảo nổi danh như Jean Paul Sartre triết gia hàng đầu của Pháp, Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa tốt nghiệp Đại học Y khoa Paris, Kiến Trúc Sư Huỳnh Tấn Phát tốt nghiệp thủ khoa ban Kiến trúc Đại Học Hà Nội, Thạc sĩ Nguyễn Văn Bông người đầu tiên khai khoa cho ngành Công Pháp Quốc Tế tại Đại Học Paris, nhạc sĩ tài hoa Lưu Hữu Phước tác giả bản Sinh Viên Hành Khúc, v.v… danh sách thật dài nói lên nét vượt trội của Dân Tộc.
“Cuộc Chiến Tranh Của Hồ Chí Minh Đánh Dân Tộc” là cuộc chiến dài nhất trong thế kỷ 20, mà lại không chấm dứt vào ngày 30-4-1975. Đến thời điểm đó chỉ là hết giai đoạn nóng! Đảng Cộng Sản của ông vẫn tiếp tục đánh Dân Tộc qua giai đoạn lạnh. Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, con giáo sư Đại học Dương Văn Thới, có người anh là Luật sư Dương Trung Tín bị ám sát bằng lựu đạn ở Đà Lạt, một cái chết đầy nghi vấn, khiến cho sau đó Bác sĩ Hoa phải bỏ thành vào Bưng. Đến năm 1981, chính BS Hoa, người đã từng làm Bộ trưởng Y Tế trong Chính phủ CMLTMNVN, đã cay đắng thốt lên: “Suốt đời tôi, đã là một người Cộng Sản. Nhưng nay, lần đầu tiên tôi nhìn thấy trên thực tế chủ nghĩa Cộng Sản là gì. Đó là một sự thất bại – quản trị tồi tệ, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi, áp bức. L‎‎ý tưởng của tôi đã mất.”
Trường hợp Kiến Trúc Sư Huỳnh Tấn Phát bi thảm hơn nhiều. Ba người thân trong gia đình bị Việt Minh sát hại: cha ông, chú út của ông là Luật sư Huỳnh Văn Phương, và cô Tám của ông bị Việt Minh sát hại trong thời gian Trần Văn Giàu nắm trọn quyền sinh sát ở Nam Bộ. Ông được chọn làm Chủ Tịch (tức là Thủ tướng) trong Chính Phủ CMLTMNVN (1969) và sau là Phó Thủ tướng của CHXHCNVN (1979). Luật sư Lâm Lễ Trinh, trong bài Phê bình về Ván Bài Lật Ngửa, đã tiết lộ rằng: “Một thân nhân của Phát hiện sống tại Paris cho ông biết một cuộc ám sát hụt do CS tổ chức tại Sài Gòn để cảnh cáo Phát vì bị nghi có sự bất mãn với Đảng. Phát bị thương và điều trị tại Nga Xô”. Giấc mơ cuối đời theo tâm tình của bà Nga vợ ông: “Phó Thủ Tướng Huỳnh Tấn Phát ước mơ có một xe gắn máy để chiều chiều chở cháu đi chơi!”
Trường hợp Kỹ sư Trương Như Tảng bỏ Sài Gòn vào Bưng tham gia “Giải Phóng Miền Nam” và được phong làm Bộ trưởng Tư Pháp trong Chánh Phủ CMLTCHMNVN. Nhưng khi Miền Nam “được giải phóng” thì ông lại bỏ đi vượt biên. Đến Pháp, ông viết tự truyện “Mémoires d’un Việt Cộng” bằng Pháp văn và mượn lời của mẹ, lúc đó đã 78 tuổi, nói thay cho ông: “Những người bạn Cộng Sản của con chỉ toàn ăn nói lật lọng, tráo trở, dối trá, và tàn ác. Họ đã gieo gió, rồi đây có ngày họ sẽ gặt bão.”
Trường hợp Kỹ sư Hồ Văn Bửu thì thật vô cùng bi thảm. Tốt nghiệp kỹ sư canh nông ở Paris năm 1958, ông về Sài Gòn và được bổ nhiệm vào trường Kỹ Thuật Nông Nghiệp. Đến 1964, ông sang làm chuyên viên khảo cứu cho các đồn điền cao su của Pháp ở miền đông Nam Phần. Rồi ông ngã theo Mặt Trận GPMN, đến 1968 ông được Cộng Sản đề cử vào Ủy Ban Trung Ương của Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình Việt Nam. Khi đã lọt vào tay Cộng Sản rồi, thấy mình bị mắc lừa, ông cố tìm cách thoát thân. Ông trốn qua Miên, bị cầm tù một thời gian, rồi bị trục xuất qua Lào. Ở đây, ông bị điều tra mấy tháng rồi giải giao cho Chánh Phủ VNCH. Phải mất 6 tháng vượt thoát khỏi nanh vuốt của Cộng Sản ông mới trở lại mảnh đất tự do của Miền Nam. Ông không bị kết tội đã theo Cộng Sản, trái lại ông được đưa đi công du để tố cáo chế độ Cộng Sản (như sang Ấn Độ chẳng hạn, học giả Hứa Hoành có đọc Hồi K‎ý của ông và ghi lại như thế). Sau ngày 30-4-1975, Kỹ sư Hồ Văn Bửu bị bắt cầm tù đến 1980 mới được thả. Sau 10 năm sống không có hộ khẩu, ông tìm cách vượt biên nhiều lần. Sau cùng ông đến được Thái Lan năm 1990, nhưng rủi thay vào lúc Cao Ủy Tỵ Nạn quyết định chấm dứt phong trào thuyền nhân. Ông bị rớt thanh lọc và bị trả về Việt Nam để làm thân phận “Vỏ Chanh” bị vất bỏ đến ngày tàn của cuộc đời!
Viết Di Chúc Cũng Ném Đá Dấu Tay!
Trước khi khép lại hồ sơ Ném Đá Dấu Tay, người viết xin thêm vài hàng rồi thôi. Khi Hồ Chí Minh qua đời ngày 2-9-1969, ông để lại Di Chúc viết ngày 10-5-1969. Bản Di Chúc này được công bố ngay sau đó. Mãi đến thập niên 80, lại xuất hiện thêm một Di Chúc khác viết ngày 14-8-1969 (Xin xem lại Chương 3 Hồ Chí Minh, Kẻ Mang Tên Giả). Trong bản Di Chúc Thứ Hai này, Hồ Chí Minh tố cáo rằng ông đã bị Lê Duẩn và Lê Đức Thọ ép buộc phải viết di chúc trước theo ‎ý họ nên ông viết mà trong bụng ấm ức vô cùng. Hồ Chí Minh viết tiếp: “Nay tôi viết thêm tờ di chúc này, xin coi là chính thức. Ngoài ra tôi không công nhận bất cứ bản di chúc nào khác. Tôi ước mong một ngày nào đó, bản di chúc tôi viết đây sẽ được nhiều người biết tới, thì ở thế giới bên kia tôi mới được thỏa lòng”.
Khởi đầu Di Chúc Thứ Hai, Hồ Chí Minh nhắc lại một câu nói thông dụng ở Trung Quốc ngày xưa: “Con chim trước khi chết thì tiếng kêu thương, con người trước khi chết thì lời nói phải”. Chúng ta cứ tin như vậy đi: “Con người trước khi chết thì lời nói phải”, thế gian thường tình là như vậy! Nhưng Hồ Chí Minh vì suốt đời gian xảo tráo trở, đến khi gần chết, viết di chúc cũng dối trá, những mong lường gạt đặng hậu thế. Đọc thật kỹ Di Chúc Thứ Hai, ta cũng tìm được những lời chối tội theo kiểu ném đá dấu tay!
Viên Đá Thứ Nhất Trong Di Chúc
Hồ Chí Minh viết: “Tôi cũng ngay tình mà dùng những người hợp tác với tôi. Tôi cứ tưởng những người đó yêu qu‎ý tôi, đâu ngờ họ đều là mật thám của Nga sô, vây quanh tôi chỉ là để kiểm soát tôi, khéo léo hướng dẫn tôi đi theo con đường Nga đã vạch sẵn”.
Lời Bàn: Nói về gián điệp và mật vụ thì Hồ Chí Minh là tay kiệt xuất. Ông đã học qua nhiều khóa ở Liên Xô, ông đã từng phục vụ KGB của Liên Xô, Cơ Quan Phản Gián của Trung Cộng, làm điệp viên cho Trương Phát Khuê, hợp tác với OSS tiền thân của CIA của Hoa Kỳ, và là mật báo viên của Phòng Nhì của Pháp. (Còn có lời đồn ông có hợp tác với Tình Báo của Anh ở Hương Cảng nữa). Chính ông mới là người cất đặt dàn dựng màn lưới tình báo để kiểm soát những đảng viên, nhất là những người trí thức mà ông không tin cậy. Trong quá trình thành lập Đảng, vì ông là Quốc Tế Ủy nên hàng hàng lớp lớp Xã Ủy, Huyện Ủy, lên cao tới Thành Ủy, Xứ Ủy, Khu Ủy… những “bầy đàn”, những “đám đôm” đó đều do tay ông sắp xếp cất nhắc cả (“đám đôm” chữ của Trần Huy Quang trong bài Linh Nghiệm). Kết tội thủ hạ của ông là mật thám của Nga sô, kết tội họ đã kiểm soát và lèo lái ông đi vào quỹ đạo của Nga, thật là sự vu khống trắng trợn vô cùng hạ cấp. Chính ông lúc tập tễnh bước vào nghề làm Cộng sản đã quyến dụ những thanh niên thuộc Tâm Tâm Xã của cụ Phan Bội Châu để thành lập Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Lenin. Đó là Chi Bộ Cộng Sản đầu tiên và từ đó Đảng lớn mạnh. Do đó chính ông đã thành lập Đảng và đưa Đảng của ông vào con đường “Kách Mệnh Mác Lê Xít Mao” chứ không phải ai khác. Đầy đủ chứng tích rõ ràng, thế mà ông lại viết: “Họ kiểm soát tôi, khéo léo hướng dẫn tôi đi theo con đường Nga đã vạch sẵn”.Thật không thể tưởng tượng nổi lời nói của KẺ BẤT LƯƠNG nói không thành có, vừa ăn cướp vừa la làng! Thật không ngờ, đó lại là những lời Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong Di Chúc!
Viên Đá Thứ Hai Trong Di Chúc
Hồ Chí Minh viết: “Họ đề cao và tâng bốc tôi để khi nào làm điều độc ác thì tôi phải chịu hết trách nhiệm với dân tộc”.
Lời Bàn: Bác Hồ ơi, nếu Bác sống khôn thác thiêng, thì xin về đọc những lời sau đây và hiểu cho kỹ. Bọn văn thi sĩ nô bộc đề cao, tâng bốc, và thần thánh hóa Bác là việc riêng của họ, họ phải làm như vậy để lấy điểm với Bác. Nếu họ đề cao thái quá và nếu Bác biết mình không phải là thần thánh, sao Bác không bảo họ ngưng đi! Còn việc Bác làm điều độc ác là việc riêng của Bác. Bác làm ác thì Bác phải chịu tội, sao Bác lại ca bài “Qu‎ít Làm Cam Chịu”. Bác là chủ tịch Đảng trong một chế độ “Đảng lãnh đạo, Nhà Nước quản l‎ý, Nhân Dân làm chủ” thì Bác phải chịu hết trách nhiệm lãnh đạo về việc làm tốt hay xấu của các Đảng viên, cho dù đó là những việc Bác không làm, Bác cũng phải lãnh phần trách nhiệm lãnh đạo! Bác viết Di Chúc đổ lỗi cho đám thủ hạ nâng bi Bác như thế, Bác thật vô trách nhiệm, như vậy Bác ơi, Bác tự xem có xứng đáng là Lãnh Đạo hay không?
Viên Đá Thứ Ba Trong Di Chúc
Hồ Chí Minh viết: “Nhiều khi họ quyết định mà không hề cho tôi hay biết gì, như vụ cải cách điền địa ở Bắc Bộ chẳng hạn, bây giờ nhân dân có quyền rủa oán trách tôi không biết để đâu cho hết”.
Lời Bàn: Tội Ác Hồ Chí Minh gây Cuộc Chiến Tranh Đánh Dân Tộc kéo dài 30 năm sát hại và làm thương tật cả chục triệu người hai bên chiến tuyến là Tội Ác Lớn Nhất. Tội Ác Lớn Thứ Nhì của Hồ Chí Minh chính là Chiến Dịch CCRĐ với số nạn nhân có thể lên đến nửa triệu người. Vào lúc đó, trong khi VNCH ở phương Nam dốc hết toàn lực xây dựng Đất Nước để đua theo đà phát triển như Đài Loan và Nam Hàn, thì VNDCCH ở miền Bắc, Hồ Chí Minh đã nhẫn tâm giết hại biết bao nhiêu người, trong số đó có rất nhiều người có công với Kháng Chiến! Việc CCRĐ long trời lở đất như vậy, thế mà Hồ Chí Minh lại viết trong Di Chúc: “Nhiều khi họ quyết định mà không hề cho tôi hay biết gì, như vụ cải cách điền địa ở Bắc Bộ chẳng hạn”.
Chuyện CCRĐ ở miền Bắc là Đại Quốc Nạn “long trời lở đất” bao trùm cả 3563 ngôi làng chớ không phải chuyện nhỏ như một ổ gà đẻ để có thể lấy thúng che úp được. Do đó, lời chạy tội này của Hồ Chí Minh thật vô cùng ấu trĩ, ví như em bé ăn vụng mà không biết chùi mép! Thế tại sao ông lại khổ công viết Di Chúc Thứ Hai? Hiển nhiên ông muốn chống chế, gỡ gạc cốt sao cho mình được nhẹ tội. Di Chúc này ông viết ngày 14-8-1969, chỉ 19 ngày trước khi ông qua đời. Quanh giường bệnh của ông lúc đó, có hay không có triệu triệu vong linh lạc loài, oan hồn uổng tử khắp ba miền Đất Nước tề tựu để đòi ông đền mạng khiến cho ông mụ đầu mủn óc? Có hay không có? Chúng ta trả lời sao? Trong cõi siêu nhiên mầu nhiệm, tất phải có điều linh ứng xảy ra khiến cho chúng ta mới hiểu được tại sao Hồ Chí Minh vốn là một tay Đại Mưu Sĩ, bình sinh rất giảo hoạt, vô cùng sắc sảo trong lời ăn tiếng nói, mà lại viết những lời lú lẫn, ngu ngơ, ấu trĩ trong Di Chúc Thứ Hai này! Bản Di Chúc không thuyết phục được ai, không thể ngờ được do một tay đại mưu sĩ như Hồ Chí Minh viết ra. Thà không viết còn hơn! Không người trần mắt thịt nào của cõi nhân gian hữu hình xui giục ông viết được! Nếu không tin theo luật “Nhân Quả Linh Thiêng”, ta không tài nào hiểu tại sao! Thế mới biết “Trời Cao Có Mắt”, thế mới biết “Thiện Ác Đáo Đầu Chung Hữu Báo”. Chân l‎ý nghìn đời ghi chép lại trong Tự Tình Dân Tộc quả không sai!
Di Chúc Thứ Hai phản tác dụng. Trong Di Chúc, Hồ Chí Minh thú nhận ông không làm gì cả, không biết gì cả, tức là ông đã chối bỏ ngôi vị Chủ Tịch Đảng của ông rồi! Ông không minh oan cho ông được. Trong Di Chúc ông cố dùng tàn lực để ném đá dấu tay lần cuối trong đời! Nhưng tay đã không dấu được! Mà đá đã bị ông ném vào người ông! Đúng là “Gậy Ông Đập Lưng Ông” như dân gian thường nói. Kho tàng văn học dân gian còn ghi “Cháy Nhà Ra Mặt Chuột”. Suy ra, “Ngôi Nhà Kách Mệnh” do Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng suốt đời, vốn không đẹp đẽ gì, Dân Tộc chỉ muốn phá bỏ đi, thì may thay, đến khi gần chết, Hồ Chí Minh lại đốt bằng Di Chúc của mình! Nhà cháy, chạy ra không phải là “Chủ Tịch” mà là “Mặt Chuột”! Hồ Chí Minh đã hoàn tất nhiệm vụ lịch sử của ông rồi! Thôi, thôi nhé… ! Dân Tộc hãy can đảm xếp Trang Sử Hồ Chí Minh lại! Và hãy can đãm đứng lên xây dựng lại Đất Nước với đầy Tình Người theo ánh Hào Quang của Hồn Thiêng Sông Núi!

No comments: